PHẦN HAI
A.ĐỐI CẢNH TRẢ LỜI
1.NÓI VỀ THIỆN MỸ
. Thiện là gì ?
Thiện là trí tuệ. Trí là phân biệt trí, năng lực hiểu biết phân biệt. Tuệ là bình đẳng tuệ, sự hiểu biết chẳng bị chi phối bởi cái tôi và tình cảm. Có trí tuệ thì có thiện và mỹ. Lại nữa : thiện không thể biểu hiện bằng oai quyền, không thể mượn danh nghĩa là vì lòng tốt, rồi ép người ta theo mình .
. Từ bi và thiện quan hệ ra sao ?
Có lòng từ bi mà không có trí tuệ thì đôi lúc sinh phiền phức. Ví dụ gần đây trong xã hội thường có chuyện những người có lòng tốt bị lừa đảo. Như thế, từ bi không những chẳng đạt tới cái thiện lý tưởng mà ngược lại giúp cho kẻ lừa đảo tạo tội. Mình phải dùnh trí tuệ để phát huy lòng từ bi, thì mới có cái thiện chân chính.
. Thế nào là đẹp nhất ? Thế nào là vui nhất ?
Yên tĩnh là đẹp nhất. An định thì vui nhất. Tập thiền, tu tâm, dưỡng tánh là tốt đẹp nhất mà cũng an vui nhất. Đây cũng là cảnh giới cao thượng nhất.
. Trên đời phải chăng thật có chuyện hoàn mỹ viên mãn sao ? Viên mãn có thể truy cầu chăng ?
Có đầu ắt có đuôi, có sinh ắt có diệt. Việc truy cầu vật chất và danh lợi chẳng những vừa cực khổ, vừa mất công, lại còn chẳng bao giờ ngừng, cũng không có gì bảo đảm. Chỉ nhìn vào đây cũng biết trên đời không có chuyện gì viên mãn. Song, mình có thể truy cầu sự viên mãn của nhân tánh. Đây là sự truy cầu trên quan niệm giá trị. Bởi vì nhân tánh, đạo đức thì ta có thể tu sửa nâng cao. Quay tìm nơi tự tánh, bằng cách tu dưỡng và nỗ lực, ta sẽ nhìn thấy cảnh giới thiện mỹ. Mình có thể tìm tới một phần giá trị viên mãn, đạt tới một thái độ hoàn mỹ về nhân sinh.
. Người như thế nào thì đẹp nhất ? Áo quần nào đẹp nhất ?
Khuôn mặt đẹp nhất luôn tươi cười. Mỉm cười là ngôn ngữ chung của thế giới, là biểu hiện của tình thương. Áo đẹp nhất là áo nhẫn nhục nhu hòa.
2 NÓI VỀ ĐỨC HẠNH
.Đức là gì ?
Đức là thực hành, là có chí hướng vào đạo. Có đức trong tâm rồi biểu hiện ra bên ngoài thì gọi là đức tướng. Giống như tướng đi cử chỉ,…có thể biểu hiện đức tướng của một người. Do đó đức là một thứ giáo dục cá nhân, do nội tâm thấu hiểu chân lý rồi biểu hiện ra ngoài bằng hành vi và quy củ.
.Một cô trẻ tuổi hỏi : Mặc quần áo ra sao mới phải ?
Tự nhiên là tốt nhất. Áo quần mặc để bảo vệ thân thể, mà cũng biểu hiện khí chất của một người. Mình thân phận ra sao, tuổi tác thế nào, trong hoàn cảnh gì, phải tùy nghi mà mặc mới tự nhiên. Lại nữa : Y phục cần phải thích hợp với người mặc thì mới đẹp; quá lộ liễu thiếu tự nhiên thì chẳng còn đẹp nữa.
. Người phụ trách trong hội ở một đại học nọ tới hỏi rằng : Thế nào là tạo khẩu nghiệp ?
Khi những điều ta nói, câu nào cũng chân thật, chuyện gì kể ra, câu nào ta cũng chịu trách nhiệm, thì đó là chính ngữ. Ngược lại như vậy thì tức là tạo khẩu nghiệp. Mở miệng nói năng, không đâu chẳng là nghiệp. Muốn đừng tạo nghiệp, ta cần dùng trí tuệ vô lậu thâu nhiếp lời nói. Nói đùa, nói giỡn hay trào phúng kẻ khác, cũng tạo ra nhân quả chẳng tốt đẹp gì. Lại nữa : Hòa và kính là việc tu hành tối trọng yếu. Do đó chớ để thân ta biểu hiện trái ngược với (tính tốt đẹp trong )cuộc sống sinh hoạt. Cộc cằn, thô lỗ nói láo, nói thêu dệt nói hai lưỡi với kẻ khác là tạo nghiệp với lời lẽ, hay chính là tạo khẩu nghiệp vậy.
.Vì sao người ta đối với kẻ thân thuộc lắm khi thiếu lễ độ, thiếu chu đáo so với kẻ xa lạ ?
Nhiều khi đối với kẻ xa lạ thì ai cũng ra vẻ khách sáo tiếp đãi, đầy đủ lễ tiết khách chủ, vui vẻ thân thiện. Nhưng đến khi biết nhau lâu rồi, vì quá quen thuộc nên không cần khách sáo, lễ mạo nữa. Do vậy có người nói : hận thù do tình ái mà ra. Lúc ban sơ ai cũng khách khí, kính trọng, thương mến nhau; đến lúc quen thuộc quá rồi thì mọi lễ tiết từ từ mất đi. Lúc ấy (nếu có xích mích, mất lòng) thì sẽ sinh khởi lòng oán hận ngay. Vì thế mình cần giữ thái độ lễ mạo khách khí thuở ban sơ, thủy chung không giảm bớt; đó mới là cách đối nhân xử thế.
. Nhiều người về thăm cố hương ở Trung Quốc, chứng kiến dân ở đó nghèo nàn, lạc hậu thì sinh lòng phân biệt khinh khi. Trong lời nói, cử chỉ họ biểu lộ thái độ kiêu ngạo.
Chúng ta về thăm nhà ở Trung Quốc thì tâm nên cung kính kiền thành, với quan điểm bình đẳng và đạo đức. Không nên làm họ đau lòng, không làm họ chướng mắt. Cuộc sống nghèo nàn ấy, há chẳng phải chúng ta đã từng trải qua, chẳng lẽ các bạn đã quên rồi sao ? không kềm chế, tự mình khoe khoang, thì không những làm đau lòng đồng bào ta mà còn tổn hại luôn chính mình.
3. NÓI VỀ SINH MẠNG
. Một học giả trẻ tuổi hỏi : Nhà Phật nói hữu lậu là khổ. Sinh mạng mình sinh ra lớn lên, tự nhiên sẽ phải chết đi. Phải chăng bản chất cuộc sống dính liền với sự đau khổ ?
Sống và chết vốn gắn bó nhau. Chết : kẻ đau khổ nhất chẳng phải là bản thân người chết, vì xác chết chẳng biết đau đớn gì. Đau khổ nhất chính là người còn sống : nghĩ đến cái chết thì tinh thần họ đau khổ bởi áp lực của tâm lý. Chẳng phải chỉ có nhục thể mới chết. Lại còn có ái biệt ly khổ : người mà ta thương yêu, chẳng muốn rời tay nhưng không thể không rời; đó thật là điều thống khổ dày vò nhất trên mặt tinh thần. Mình có ngày sinh ra thì cũng có ngày chết đi. Những khổ mà ta thường nói chính là xảy ra giữa khoảng thời gian sinh ra và chết đi này. Đời người đầy những chuyện thị phi đúng sai ; chuyện đúng thì tựa như sai, việc quấy thì tựa như đúng. Tuy biết chuyện gì cũng vô thường, nhưng ta khó tránh bị chuyện thị phi, nhân ngã trước mắt lôi kéo rồi sinh phiền não. Cần biết rằng mình sinh ra làm người, đời sống này thật đáng quý vô cùng. Mình nên bắt chước em bé Lâm Truyền Khâm :Khi có người hỏi rằng hai cái chân em bị cưa cụt rồi, em nghĩ thế nào ? Em nói :Tôi so với những người xương sống bị tổn hại còn đỡ hơn nhiều lắm ! Bạn nói em ấy khổ sở ? em chẳng khổ đâu.
.Có vị hội viên hỏi : Chúng tôi phải nhìn thế giới này sao cho đúng ?
Lấy một thí dụ để đáp : khi người ta xem một đóa hoa, một ngọn cỏ, họ xem chúng ta như hoa vẽ (hình vẽ trên trang giấy trắng). Nếu nhìn cho đúng thì phải xem hoa cỏ ấy đang ở trên tấm kính trong suốt. Hai cái nhìn ấy có gì khác biệt ? Hoa trên giấy thì chỉ là hình vẽ, nhìn nó ta chẳng thấy được nhân duyên của nó, bởi vì nó đơn độc, bị tách rời với sự sống động, chẳng có sinh mạng, chỉ để nhìn mà thôi. Khi nhìn đóa hoa trên tấm kính trong suốt, thì bối cảnh thiên nhiên, thiên địa vạn vật hỗ tương hiển lộ, hoa cỏ tự nhiên sống động vô cùng. Khi ấy bạn sẽ không thấy hoa cỏ chỉ đơn độc là hoa cỏ mà thôi.
. Có thanh niên hỏi : Con đường đời, ta nên chọn đường bình phàm êm dịu hay chọn đường mạo hiểm sôi nổi ?
Nên chọn đường bình phàm. Mạo hiểm là điều bất đắc dĩ, không phải vì bạn có tâm mạo hiểm rồi chọn đường mạo hiểm. Lại nữa : Cuộc sống của ta thật quá nhỏ so với vũ trụ bao la. So sánh như vậy, thì việc gì mới đúng thật là vĩ đại cao siêu ? Sao mới gọi là sôi nổi ? Chi bằng cứ bình dị thật thà mà làm người, làm việc.
4. NÓI VỀ LÒNG KHOAN DUNG, NHU HÒA
.Có người nói : Lý trực khí tráng (chỉ một người tính thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy).
Nên lý trực khí hòa(tính thẳng thắn nhưng phải giữ lời lẽ ôn hòa).
. Có người lại nói : khi mình đúng lý thì đừng nhường ai cả.
Vì mình đúng lý nên mới nhường người.
. Nếu cứ lý trực khí tráng thì có vấn đề gì chớ ?
Nếu cho rằng mình đúng lý, rồi chuyện gì cũng tranh thắng thì thật quá can cường. Khi quá can cường, bạn sẽ phá vỡ tính hòa khí với kẻ khác. Khi bạn đúng lý mà chẳng nhường ai, thì bạn sẽ tạo thành cuộc diện tranh chấp tới cùng. Nếu do chấp trước vào ý kiến của mình, bạn khiến người khác tạo ác nghiệp, thì đó là điều sai lầm. Mình phải nghĩ đến lợi ích của kẻ khác, lúc hành đạo nên làm chúng sinh vun bồi thiện nghiệp. Do đó mới cần : lý trực khí hòa, hễ càng có lý thì bạn phải càng phải hòa nhã.
. Lại hỏi : Lý trực khí hòa là thế nào ?
Con người ai cũng cần tình thương; quá nghiêm khắc, bạn sẽ mất đi tình thương. Khi bạn đúng lý, bạn phải giữ khí độ ôn hòa thì mới bao nạp được tình thương, sáng tỏ thêm chân lý. Do đó làm người, mình cần bên trong đúng đắn, bên ngoài hòa nhã.
. Có vị đệ tử hỏi : Làm sao viên dung việc làm người và làm việc ?
Viên nghĩa là đầy đặn vẹn toàn ; Khi đối đãi xử thế với người, mình phải làm cho trọn vẹn hết lòng. Không nên sắc bén, bởi vì quá sắc bén thì sẽ tổn thương kẻ khác, có thể đâm xóc vào tim người ta.
. Có cô phát biểu rằng : Hàng ngày làm việc tôi thường cảm thấy rất đau lòng.
Hãy cởi mở cõi lòng ! Nếu cửa lòng khai mở thì ai cũng có thể ra vào, chẳng hề chướng ngại. Nếu cửa quá hẹp, người ta ra vào chắc chắn sẽ đụng va vào cửa.
. Có những người thường nói rằng : Sư cô ! Khi tôi sắp nổi giận, nhớ lại lời cô dạy về lòng hoan hỷ, tôi liền đè lòng nóng nảy xuống, nhưng thật khó mà nhẫn quá.
Sư nói : Bởi vì bác còn muốn đè nó xuống nên mới cảm thấy khó chịu. Nếu bác mở rộng cõi lòng, dung nạp mọi thứ thì tự nhiên tâm sẽ mát mẻ vui vẻ. Chẳng cần đè nén cho khổ sở ! Đây, bác cần phải từng bước tu dưỡng, giống như nước chảy đá mòn vậy : Tính nóng nảy, lòng cố chấp cứng như đá sẽ bị lòng nhu hòa tùy thuận tốt lành cảm hóa.
. Có vị hội viên hỏi : Mỗi lần chúng tôi đi thăm những nhà nghèo, cấp nạn, chúng tôi thấy họ chẳng được giúp đỡ gì cả, không biết phải làm sao an ủi họ ?
Trước hết bạn nên dùng thái độ nhu hòa, lời lẽ hiền từ thương mến, để làm giải tỏa lòng khủng hoảng lo sợ của họ. Sau đó bạn từ từ xây dựng đức tin tôn giáo để tinh thần họ có nơi nương tựa đặng đối phó với khốn khổ trước mắt. Công việc của chúng ta nào phải giúp đỡ họ về mặt vật chất thiết thực mà thôi; giải cứu họ trên mặt tinh thần mới quan trọng. Cứu người tuy khẩn cấp nhưng cứu tâm còn gấp rút hơn.
.Sao gọi là vẻ nhu hòa khiêm nhường nơi khuôn mặt của Bồ tát ?
Đối với những chúng sinh bần cùng khốn khổ, mình phải có lời nói, ngữ khí nhu hòa, mềm dịu, thái độ khiêm tốn, thân thiết. Người nghèo khổ chẳng phải chỉ cần vật chất mà thôi, Họ cần tình thương nữa đó. Biểu hiện của tình thương là ở nơi nét mặt, cử chỉ thái độ. Do đó mình đừng tỏ vẻ ngạo mạn. Phải ôn hòa thân thiết với họ.
. Có người đệ tử hỏi ; Khoan dung tha thứ cho kẻ khác là sao ?
Toàn thiên hạ chẳng ai không phải là người để ta thương, người mà ta tín nhiệm, người để ta tha thứ. Nếu có cái nhìn như trên thì tâm mình sẽ lành mạnh, phát triển đàng hoàng. Tự nhiên mình sẽ có lòng khoan dung tha thứ, biết thương người, tín nhiệm kẻ khác.
5. NÓI VỀ SỰ THIẾU SÓT
. Có một vị hội viên khi rót trà bưng ra cho Sư, thấy chén trà bị mẻ một miếng, nên nói rằng : Thầy, con thật xin lỗi, cái chén bị mẻ một miếng.
Ngoại trừ chỗ mẻ nhỏ xíu ấy, cả chén đều lành lặn. Cũng vậy, mỗi người chúng ta ai cũng có chút khuyết điểm. Nếu mình đừng để ý tới khuyết điểm thì người ta ai ai cũng tốt cả.
. Làm sao đối xử với kẻ phạm lỗi ?
Nên bắt chước như Phật đối xử với chúng sinh có tội ác : Ngài tha thứ họ, thương xót họ, giúp đỡ họ. Bản tánh người ta ai cũng có nhân lành, gốc tốt. Kẻ phạm tội ác còn đau khổ hơn kẻ bị họ xúc phạm nhiều lắm.
. Kẻ làm ác phải chăng đều đau khổ ?
Kẻ làm ác là tù nhân trong địa ngục của chính mình. Nếu họ chẳng thừa nhận sự đau khổ của họ thì họ ở vào một trong hai tình huống : Một, là họ mạnh miệng nói cứng, nhưng nội tâm thì khủng hoảng lo sợ; kỳ thật lòng họ rất yếu đuối, họ không dám đối diện với nỗi đau khổ của chính mình. Hai, có thể họ là người bệnh thần kinh, tâm trí không bình thường; những người như vậy thì bệnh phải nặng lắm. Do đó họ càng cần được yêu thương, và cần được trị liệu.
. Những kẻ chưa sửa thói hư tật xấu cũ, lại cứ thường phạm lỗi hoài, mình nên tha thứ cho họ chăng ?
Tật xấu là quá trình tích lũy thói quen xấu mà ta chẳng ý thức. Nó khác với việc mưu mô phạm tội. Đối với họ, mình càng nên có lòng thương yêu và nhẫn nại hơn để dạy dỗ, hướng dẫn họ. Có một câu chuyện như sau ; Có một chú đồ đệ nhỏ tuổi, tuy nhất tâm hướng Phật nhưng chẳng sao sửa được thói quen ăn cắp vặt. Hơn nữa, đó đã trở thành thói quen rồi. Mỗi lần Thầy đều tha thứ cho chú. Một lần trong tình huống bức thiết, chú lại phạm giới. Đại chúng ai cũng bực bội nên mới trình lên vị sư phụ, rằng phải đuổi chú ta đi. Nếu không đuổi chú ấy, mọi người sẽ bỏ đi vì họ xấu hổ có chú ấy trong hàng ngũ đại chúng. Sư phụ dạy rằng : Bởi vì các con, người nào cũng chú ý tới việc tu hành đạo đức, nên tới chỗ nào các con cũng được hoan nghênh tiếp đón. Chỉ có chú nhỏ này, bởi có tật xấu nên chú đi đâu cũng chẳng có ai hoan nghênh. Bởi vậy làm sao tôi có thể giữ các con lại, nhưng bỏ rơi chú ta ? Đại chúng nghe vậy ai cũng cảm động. Chú đệ tử kia cũng hổ thẹn vô cùng, cảm kích đến rơi lệ. Từ đó chú ta quyết tâm sửa đổi, cuối cùng trở thành người tốt.
. Trên đời ai là kẻ sung sướng nhất ?
Ai có thể tha thứ cho kẻ khác thì người ấy là kẻ sung sướng nhất. Ngay lúc bạn khởi lòng tha thứ, thì phiền muộn trong lòng cũng lập tức tiêu tan.
6. NÓI VỀ THỰC TẾ
.Có người hỏi : Làm sao phát tâm ?
Phát tâm thì phát ở nơi chân : đi cho ngay ngắn, đứng cho vững vàng. Không phải là phát tâm nơi cửa miệng, chỉ nói mà chẳng thực hành.
. Có vị thanh niên học Phật pháp tới tá túc nơi tịng xá, thỉnh vấn rằng : Vì sao người đọc sách (học sinh) thường hay cảm thất phiền muộn ?
Các bạn trí thức thì ai ai cũng nhiều chữ nghĩa. Khi bạn không thể dung hợp lý và sự (sự hiểu biết với hiện thực trước mắt) thì lòng sẽ sinh phiền muộn, đó gọi là hiểu biết nhưng thiếu thực hành. Do đó mình nên bỏ việc buồn rầu, chuyện gì cần làm thì làm ngay, việc gì phải bỏ thì bỏ liền. Vậy thì còn giờ đâu mà ngồi lãng phí rầu rĩ chớ ?
. Có vị chuyên làm công tác xã hội cảm thán rằng đời nay càng ngày càng tệ, lòng người chẳng như xưa nữa .
Chớ nên than phiền đời này bây giờ tệ hại ra sao, hay lòng người bỉ thử xấu xa thế nào. Ngược lại mình nên vì nó mà sinh ý tưởng mạnh dạn rằng: do xã hội tệ hại như vậy, nên mới cần ta làm gì chứ. Ví dụ : do có người bệnh thì mới thấy sự quan trọng của bác sĩ. Chính vì có chuyện tệ hại thì mới khuyến khích mình xắn tay vào việc; nó cũng là duyên lành khiến ta phục vụ chúng sinh, thực hiện lý tưởng của mình.
7. NÓI VỀ VIỆC LÀM
. Có đôi vợ chồng hỏi rằng khi làm việc (buôn bán) nên có thái độ ra sao?
Phải thành tâm, phải ngay thẳng.
. Lại hỏi ; Trong khi công ty thường có chuyện đồn đãi thị phi, phải làm sao ?
Chuyện thị phi khiến đến tai người trí tuệ thì chúng ta sẽ ngừng lại. Nếu không có chuyện thị phi, rắc rối, thế giới này chẳng còn là cõi phàm nữa.
. Đệ tử hỏi : Kẻ phàm phu thì thường hay mê muội chính mình trong chuyện thị phi nhân ngã, vậy phải làm sao ?
Luật nhân quả chi phối kẻ phàm phu khiến họ xoay chuyển trong vòng nghiệp báo đã tạo. Tuy đau khổ nhưng họ cứ chui vào vòng thống khổ. Thánh nhân thì dùng tâm bình thường để chuyển nghiệp. Hãy mau mau để nỗi đau khổ qua đi, vì nghiệp chướng cũng theo tâm cảnh mà thay đổi.
. Người ta thường cho khổ cán (khả năng chịu khổ) và năng cán (khả năng làm việc) là giống nhau.
Thật sự chúng có chỗ sai khác. Người năng cán tuy tích cực làm việc, , nhưng không bỏ được thói đời. Do đó y có thể chịu đựng lao nhọc nhưng không chịu được bị người oán trách. Kẻ khổ cán thì không những biết tận lực phát huy khả năng, nhưng đáng quý nhất là y biết chịu đựng lao nhọc và oán trách.
. Có người thường vì gánh vác (trách nhiệm) nặng nhọc nên sinh bực bội.
Không nên lo rằng gánh nặng quá lớn. Trải qua thử thách mới thành công lớn. Chỉ cần chân đứng vững vàng thì khí lực càng dùng càng dồi dào.
. Quan niệm về công việc và nghỉ ngơi phải ra sao ?
Ý nghĩa của nghỉ ngơi tức là thay đổi tư thái, là một phương thức làm việc khác. Không phải rằng ngồi yên, toàn thân bất động là nghỉ ngơi. Mình phải khéo lợi dụng cuộc đời này, hoạt động hơn một tý để thành tựu công việc nhiều hơn một chút.
. Có vị ủy viên từ ngoại quốc mới về nước tạm trú tại tịnh xá Tĩnh Tư, theo chúng làm lao tác, bao bọc đèn cầy. Bởi vì đèn cầy thì trơn tru, giấy dầu dán cũng trơn tuột; thêm vào đó phải bao mấy cây đèn cầy vào một bó với nhau nên anh ta không sao làm cho tròn trịa được. Sư thấy vậy nên mới làm thử cho coi, chỉ thoáng chốc là bọc xong. Vị ủy viên mới hỏi nguyên lý bọc đèn cầy là gì ?
Sư giải thích ; Làm việc gì cũng phải chú mục ngưng thần vào việc ấy. Tay chỉ tùy theo ý niệm dắt dẫn mà chuyển động. Bạn cần phải tế nhị, chuyên nhất, thứ lớp mà làm. Không cần phải quá tham lam. Trước hết, dùng giấy dầu bọc kỹ một cây đèn sáp trước; Xong từ từ lăn giấy tới để bọc hết mấy cái kia. Bởi vì mỗi cây đèn thì lớn nhỏ bằng nhau nên bạn có thể (lăn đèn sáp vấn giấy vào), để tuần tự hoàn thành. Làm việc, tu hành đều cùng nguyên tắc.
. Các đệ tử ở tịnh xá Tĩnh Tư trong lúc làm việc, phát hiện rằng hộp hồ (glue) đã dùng hết, nên có vị mới tới văn phòng hội Từ Tế để mượn hộp hồ (đã sử dụng qua rồi).
Khi sư cô đi ngang qua, nghe được chuyện này thì mới nói: Kinh phí của hội Từ Tế, một đồng, một cắt đều là sự đóng góp quý báu của hàng ngàn người hội viên. Tài chánh đó dùng vào việc giúp đời, cứu kẻ nghèo cùng, không thể dùng sai lầm dù chỉ cắt bạc. Nếu kẹt quá thì phải mượn đồ dùng, thí dụ như mượn hộp hồ, bạn phải mượn nguyên hộp, sau đó phải mau mau trả lại nguyên hộp. Việc gì cũng phải rõ ràng thì ta mới ăn nói được với các hội viên. Làm việc, không thể việc nhỏ mà ta xem thường. Phải rõ ràng tinh tế từ việc một.
8. NÓI VỀ BỔN PHẬN
. Có vị giáo sư đại học, nhìn thấy sự nghiệp trước mắt ngày càng biến chất, tệ hại thì thương cảm vô cùng.
Từ xã hội chuyên về lễ giáo truyền thống hồi xưa tới xã hội thiên về ích kỷ trục lợi ngày nay, ý nghĩa chân chính trong quan hệ giữa thầy và trò thì không ngoài lòng chân thành và sự tận tâm làm tròn bổn phận. Đời nay, quan hệ giữa thầy và trò đã biến chất : những việc chẳng trọng yếu thì quá nhiều, trong lúc những bổn phận cần thiết thì quá ít.
. Nghĩa vụ và bổn phận khác nhau ra sao ?
Khi người ta cảm thấy đây là nghĩa vụ của mình thì lúc làm, họ không cần tính toán rằng mình có được lợi ích gì không. Khi làm bổn phận của mình, chẳng ai tính toán lợi lộc gì cả. Nghĩa vụ là việc ta tình nguyện. Bổn phận là ta nhất định phải làm. Nghĩa vụ là việc có liên hệ tới người khác, được quy định bởi hình thức (như tổ chức , hội đoàn). Còn bổn phận thì tự nhiên, với nội dung thiết thực (như học hành, làm việc trong nhà). Trong mỗi trường hợp, cảm giác vui thích của mỗi người lại khác nhau.
. Có một sinh viên đang ở viện nghiên cứu hỏi ràng : thủ đoạn và mục đích, cái nào quan trọng hơn ?
Chuyện gì cũng phải có quá trình hay trình tự (process), không thể dùng thủ đoạn (như đi tắt, đi ngõ sau). Cần có mục tiêu mà không cần mục đích. Quá trình là bổn phận và rất tự nhiên (chuyện gì cũng phải tuần tự phát triển). Thủ đoạn thì cơ xảo và quyền biến (vì ích kỷ, không nghĩ tới kẻ khác ). Mục đích thì có được có mất. Còn mục tiêu chính là phương hướng.
9. NÓI VỀ TRÁCH NHIỆM
. Có vị hội viên hỏi rằng : Nhiều vị thanh niên bây giờ thấy xã hội bất công bất nghĩa thì sinh lòng bất bình, muốn ra tay chính nghĩa : Tư tưởng như vậy, hành động như vậy có thỏa đáng chăng ?
Họ nên có một chút trí tuệ tĩnh quán (im lặng quan sát). Dẹp bất bình, giương chính nghĩa :việc này chỉ làm thêm phức tạp, thêm hỗn loạn. Nhiều chuyện bất công bất nghĩa không không phải nhìn ra đơn giản như vậy đâu. Không nên quá gấp rút, nhất thời xung đột rồi hét hò, làm này nọ, kết quả là nhiều khi còn đào sâu thêm sự bất công bất nghĩa. Hãy cố gắng tự tỉnh ngộ. Nên suy nghĩ mình đã làm gì, và có khả năng làm gì ? Mỗi người cần làm tròn bổn phận phải làm. Hãy có tinh thần trách nhiệm và lòng chính nghĩa. Nếu ai cũng làm được vậy thì xã hội sẽ trở nên công bình hơn.
. Tinh thần trách nhiệm và lòng chính nghĩa khác nhau ra sao ?
Tinh thần trách nhiệm là yêu cầu đối với chính mình. Lòng chính nghĩa (ở đây có nghĩa là lòng khẳng khái, bất bình khi thấy việc bất công) là một yêu cầu đối với kẻ khác. Tinh thần trách nhiệm là một thứ lý tánh nội tại; là sự phụng hiến thân mình, xuất phát từ lương tri lương năng của ta. Lòng cảm tánh là chiếu rọi ở bên ngoài; nó là trực giác phán quyết thị phi đúng sai trong xung đột giữa chân lý và dục vọng.
. Lúc kẻ phàm gặp phải chuyện rắc rối, nghịch ý thì bực bội, nổi nóng, phải làm sao ?
Phải tự chủ, cấp thời phản tỉnh. Nổi giận là tự thất trách, tự mình làm tiêu hoa tinh thần và thể lực mà thôi. Nóng giận là sức mạnh phá hoại nội tại, nhiễu loạn tâm tánh, làm mất trí tuệ để giải quyết vấn đề. Đời mình phải làm sao đạt tới cảnh giới định. Một khi phải đối diện với hiện trạng trước mắt, chớ để nó ảnh hưởng đến sự yên tĩnh của cõi lòng.
10. NÓI VỀ CÂU THÔNG
. Giao thông hiện tại ở Đài Loan thật hỗn loạn, cội nguồn của nó xuất phát từ đâu ?
Nếu lòng người ai ai cũng câu thông với nhau dễ dàng thì trên đường lộ, giao thông sẽ tự thông suốt. Đáng tiếc là trên dưới trong ngoài, mỗi ngày đâu đâu cũng toàn chuyện tôi tranh, anh giành. Mọi người đâu rảnh rang lắng lòng, im lặng câu thông với nhau ? đường lộ lại lồi lõm ổ gà, thường thường trở ngại giao thông, lại không có kế sách hoàn thiện và lâu dài (bảo trì và kế hoạch hoá đường xá) . Do đó giao thông mới sinh rắc rối : giao mà chẳng thông .
. Thế nào là câu thông (communicate) ? Làm sao câu thông với kẻ khác ? Những kẻ bất đồng bối cảnh sinh hoạt, thói quen khác nhau, tri thức trình độ sai khác, có thể câu thông chăng ?
Thực tế rằng : Những ai có quan niệm phương hướng, và thói quen tương tự thì dễ dàng nói chuyện với nhau hơn. Nhưng khởi điểm thì tùy theo mỗi người. Trước hết mình phải lắng lòng lắng nghe. Phải vất bỏ những thành kiến của mình, để lòng trống rỗng tiếp nhận ý kiến, trí huệ của kẻ khác, thì đó mới đúng là câu thông. Do đó câu thông không phải do mình yêu cầu người khác làm, mà mình phải tự làm, tự tìm cách để câu thông với người ta. Bắt người ta nhượng bộ lùi bước, còn mình thì tiến bước; xấn tới : đó không phải là câu thông, mà là thuyết phục.
11. NÓI VỀ SỬA LỖI
. Tôi biết tôi có rất nhiều khuyết điểm, tôi sẽ từ từ sửa đổi !
Nếu bạn muốn từ từ sửa đổi thì tốt nhất là đừng sửa đổi gì cả ! Đời người vô thường, có bao nhiêu thời giờ dư dả để ta từ từ tiêu hoa chứ.
. Tại sao người khác làm sai mà họ chẳng cần phải sửa đổi lỗi lầm.
Nếu ai không muốn thành Phật thì cứ tính toán so đo với người. Một niệm giác ngộ là Phật, một niệm mê muội tức thành phàm phu.
. Lúc nghe thì hiểu nhưng khi đụng chạm thực tế thì quên mất chân lý, phải làm sao khắc phục ?
Phải phát khởi nghị lực, quyết tâm; lập chí không tái phạm lỗi lầm. Thường luôn cảnh tỉnh bản thân. Có dũng khí thì mới tinh tấn được.
12. NÓI VỀ NGHÈO VÀ BỆNH
. Tại sao ở đời có người nghèo khổ ?
Truy xét căn nguồn, tôi phát hiện đa số người ta do bệnh nên nghèo. Nếu có thân thể khỏe mạnh thì họ có thể làm việc, sống yên ổn. Nếu có bệnh, nhiều khi biến thành gánh nặng lớn cho một gia đình nhỏ. Vì vậy trị bệnh là công đức lớn nhất.
.Vai trò các vị y tá quan trọng như thế nào ? Vì sao họ phải lấy tinh thần Đức Quán Âm (Bạch Y Đại Sĩ)làm chủ đạo ?
Y tá (hộ lý) là một khâu then chốt quan trọng của việc trị liệu. Lúc người ta bệnh, ba phần là tâm bệnh. Dù bác sĩ và thuốc men có tốt đến đâu cũng phải nhờ các y tá quan tâm chiếu cố thì mới hoàn thành việc trị liệu. Vì vậy, ngoài năng lực nghề nghiệp ra, các vị y tá còn phải khởi tinh thần của Đức Quán Âm : từ bi thấy người khác bệnh khổ thì mình đau lòng và hạ quyết tâm cứu khổ nạn. Được biểu hiện ra bên ngoài bằng sự nhu hòa và lòng quan hoài.
13. NÓI VỀ TÌNH YÊU
. Có cô thiếu nữ hỏi về vấn đề nam nữ làm sao thì mới tốt.
Phải chuyên nhất; phải giữ nề nếp quy củ.
. Lại hỏi : Chuyện tình và tư tình khác nhau ra sao ?
Tư tình thì muốn chiếm hữu. Chuyên tình thì chân thành. Kẻ tư tình dùng mọi thủ đoạn để thỏa mãn dục vọng. Kẻ chuyên tình chỉ muốn thấy đối phương hạnh phúc.
. Có người bị khổ vì tình, nên hỏi : Con người có cắt đứt được tình chăng ?
Tình thật khó cắt. Đạo Bồ Tát là giác ngộ hữu tình, không phải là cắt đứt tình. Tình yêu của Phật thì triệt để, vô nhiễm, nhưng Ngài không nói rằng cắt đứt tình thương. Tư tình tư dục (dục vọng ích kỷ) làm chúng sinh thống khổ. Chỉ có tình thương bao la không bờ bến (lòng đại bi) thì mới làm chúng sinh thoát khổ.
. Con tôi được cưng chiều quá mức, nhưng nó cứ cảm thấy chẳng đủ, phải làm sao ?
Cha mẹ phải tạo cơ hội để con cái tham dự vào công việc nhà. Thương con nhưng không thể quá lố, quá yếu ớt, phải thường vận dụng trí tuệ hướng dẫn và phát khởi cho con cái. Đối với người ngoài, với chúng sinh, cũng nên phát huy tình thương, xem mình như là cha mẹ họ để đối đãi, quan hoài, và phục vụ. Từ từ con cái sẽ nhờ đó màc hiểu ra ý nghĩa của tình thương chân chính.
. Có vị làm công tác xã hội, vì quẫn bách nên hỏi rằng : Tôi thường thấy bạn bè hiến thân phục vụ xã hội, nhiệt tâm vì công ích, đến độ chẳng có rảnh rang lo lắng gia đình. Người như vậy : thương yêu cả thiên hạ nhưng lại bỏ quên người trong nhà, tôi cảm thấy dường như chẳng đúng.
Chẳng phải dường như chẳng đúng mà là thật sự không đúng.
. Có vị ủy viên hỏi : Lúc một người đem tình thương ra phục vụ giúp đỡ kẻ bần khố, y phải có tâm lý như thế nào ?
Phục vụ nhưng đừng mong cầu lợi ích gì, bất kỳ quả báo gì. Như vậy thì mới tới được chỗ chân thiện mỹ.
. Một vị ủy viên đi làm giấy tờ hiến cơ phận (bộ phận cơ thể).
Nếu bạn có thể hiểu thấu triệt tình thương và sinh mạng, không có tâm chiếm hữu gì cả, thì đó tức là tình thương của Bồ Tát.
. Tìm ở đâu tình thương vĩnh hằng ?
Tìm nơi lòng kiên thành cung kính. Tìm nơi chốn ban sơ, tìm nơi tôn giáo.
14. NÓI VỀ PHẬN CON DÂU
. Cô con dâu hỏi : Tôi đối xử với mẹ chồng tốt, thế mà bà không xử sự tốt với tôi.
Mẹ chồng đối với cô không tốt là chuyện của bà. Nhưng đối xử với bà nhạc cho thật tốt là bổn phận của cô. Nên biết, mỗi một cử chỉ hành động của cô, kẻ hậu bối đều chú ý nhìn và bắt chước đó. Nếu cô đã xử sự tốt đến 99 phần trăm, chỉ còn một phần trăm, thì hãy ráng làm cho tròn trăm phần trăm nhé.
. Cha mẹ chồng đối xử làm sao với con dâu ?
Khi con gái kết hôn, không phải rằng bác (gả) mất cô con gái, mà là bác được thêm đứa con trai (là anh rể). Khi con trai lấy vợ, không phải là đem về cô dâu, mà là thêm một đứa con gái. (ý là phải xem dâu rể như con đẻ).
. Đạo xử thế giữa con dâu và mẹ chồng ra sao ?
Con dâu xử tốt với mẹ chồng, đừng làm tâm linh họ sinh bệnh thì đó là phước của con cái. Nếu không hạp với cha mẹ chồng khiến họ tức bực sinh bệnh; thì đến lúc phải săn sóc (họ bệnh) chẳng lẽ cô dâu không góp phần vào sao ? Nên quan hoài, vui vầy với nhau. Đi chợ mua thức ăn, không nên chỉ nghĩ tới mua đồ gì con mình thích, mà chẳng nghĩ tới sở thích của cha mẹ chồng. Làm gì cũng phải có lòng cung kính.
15. NÓI VỀ VIỆC DẠY CON
.Làm sao dạy dỗ con cái cho thích đáng?
Dưỡng dục con cái thì cũng như gieo mầm. Mầm gieo xuống đất rồi cố ý bón phân và tưới nước thật nhiều thì gốc sẽ hư nát. Trong thiên nhiên đã có đủ nước và ánh sáng, không khí rồi. Thiên nhiên sẽ bồi dưỡng mầm cây. Chăm lo cho con cái cũng vậy : cha mẹ sinh con, dưỡng dục cho con lớn lên, nhưng quá sủng ái thì sẽ hại nó .
. Nhiều phụ mẫu vì con cái gây gổ nên sinh phiền não.
Nên (xem đó) là chuyện đùa. Chẳng qua con cái thiếu kinh nghiệm đời (do đó đây là cơ hội để chúng bắt đầu học hỏi). Không nhất định chúng nó xem rằng đó là cãi lộn. Làm bậc cha mẹ, mình không nên coi nặng chuyện này quá.
. Con cái không ngoan chẳng chịu học hành phải làm sao ?
Thật ra cha mẹ chỉ có nghĩa vụ đối với con cái; chỉ cần làm hết trách nhiệm, chẳng có quyền lợi gì cả. Nên trồng phước lành cho con cái. Dùng lòng thương yêu của người mẹ để quan hoài, yêu mến chúng sinh. Dùng trí tuệ Bồ Tát để dạy dỗ con cái. Không nên quá lo lắng cho con cái. Làm vậy thì vô hình trung mình khiến cho con cái mang thêm nghiệp nặng.
. Có cô thiếu nữ vì yêu đương nên bị gia đình cấm cản. Sau nhiều sóng gió, người cô yêu kết hôn với cô gái khác, khiến cô này tâm ý tiều tụy, lòng muốn xuất gia. Người nhà tuy buồn bã hối hận, Nhưng khó lòng khuyên giải cô ta. Thỉnh ý Sư phải làm sao ?
Xuất gia là chuyện chung thân, cũng giống như chuyện con cái đi lấy chồng vậy. Cần phải vô cùng thận trọng. Lấy chồng : không nên kích động, đường đột quyết định. Xuất gia : càng cần chọn lựa chắc chắn với lòng thanh tịnh sáng suốt. Lấy chồng thì bước vào một gia đình khác. Xuất gia thì bước vào nhà Như Lai. Nó cần bạn gánh vác gia nghiệp của Như Lai, tức là gánh vác toàn thể chúng sinh vậy. Nó khác hẳn với người tại gia. Sự gánh vác này không những vừa nặng mà lại vừa lâu, vạn nhất nếu gánh không nổi thì phải làm sao ? Bạn phải suy nghĩ cho kỹ càng, không nên trong lúc cảm tình nông nổi, phiền não xao động rồi lập tức quyết định. Đối với cha mẹ : Nuôi nấng con cái là trách nhiệm của cha mẹ, nhưng các bác không nên sử dụng quyền y (bắt buộc, áp chế, đe dọa, nạt nộ cho sợ ). Chẳng nên nghĩ rằng mình là phụ mẫu, nên chuyện gì cũng bắt con cái phải nghe theo. Tánh cha mẹ như vậy thì quá sức khổ sở, quá sức khắc khe. Ngay cả tình thương cũng bị tổn thương, làm sao chẳng mất đi lòng yêu mến con cái chứ !
. Có vị giáo sư y khoa, cho rằng trị bệnh là công đức lớn nhất nên khi đứa con trai vào đại học thì ông ta bắt buộc nó phải tuyển chọn trường y. Nhưng chí của người con không muốn vậy, nên nó không chịu ghi danh. Người cha căn dặn người nhà nhất định phải ép cho được con mình ghi danh vào trường y.
Cố nhiên chúng ta ai cũng biết công đức của bác sĩ thì lớn lắm. Cha mẹ nào cũng hy vọng con mình đi trên con đường tốt nhất. Đó là ý tốt. Tuy nhiên làm bậc cha mẹ, tốt nhất mình nên dùng phương thức chỉ dạy, nuôi dưỡng hứng thú của con cái. Không thể dùng mệnh lệnh để ép buộc con cái; làm vậy chúng sẽ khổ. Tuy xuất phát từ ý tốt, nhưng không nhất định nó đem lại kết quả tốt. Cha mẹ nên dùng lòng rộng rãi nhu hòa và con mắt trí huệ để đối đãi với con cái. Khiến con cái bước theo con đường nó muốn, đường nó có thể đi thì mới tốt.
16. BA Ý NGUYỆN ĐẦU XUÂN
. Tân xuân năm 1983. Hội vên thăm Tết, hỏi nguyện vọng của sư trong năm mới là gì ?
Sư có ba nguyện vọng :
-Một, không mong cầu sự như ý. Chỉ cần có đủ dũng khí để đối diện với hiện thực.
-Hai, không cầu thân thể khỏe mạnh. Chỉ hy vọng lúc nào cũng có tinh thần sung túc trí tuệ, với tình thương không hề bị lui sụt.
- Ba, không hy vọng gánh nặng nhẹ bớt. Chỉ yêu cầu có thêm sức mạnh để đảm đang những việc phải làm trên cõi đời này.
B. TÙY CẢNH KHAI THỊ
1. NÓI VỀ TÍN NGƯỠNG
. Thế nào là sức mạnh vững chắc nhất trong cuộc sống ?
Tiền nhiều tới đâu cũng chẳng thể mang theo. Tài năng có bao nhiêu cũng chẳng thể bảo đảm cả đời yên ổn. Trong cuộc sống bây giờ, chuyện gì cũng hư huyễn, trôi nổi chẳng định. Vậy thì cái gì là sức mạnh vững chắc nhất trong cuộc sống ? Nhất định mình phải tìm nơi chỗ mà cuộc sống này chung cuộc quan hoài nhất. Chỉ tại nơi đó. Khi một người có được sự quan hoài rốt ráo của đời mình rồi, thì bất kỳ ở hoàn cảnh nào, gặp gian khổ gì, y vẫn có thể theo tông chỉ và phương hướng đã định, an nhiên tiến bước, như con thuyền lướt sóng theo hướng la bàn vậy .
. Một vị ký giả than thở rằng : Vì sao tôi cứ bận rộn công việc hoài, vì sự nghiệp mà lòng hốt hoảng bất an; tuy nỗ lực không mệt, nhưng lại thường cảm thấy trống rỗng ?
Trước tiên bạn phải tìm lại chính mình, nếu không thì giống như cánh bèo không gốc trôi mãi. Dù lúc nào, nơi nào bạn cũng dụng tậm dụng sức, nhưng kết cuộc sẽ trống rỗng.
. Hỏi : làm sao tìm lại chính mình ?
Nói cho cùng thì phải về lại với tôn giáo. Lấy tinh thần tôn giáo làm trung tâm, thì tự nhiên sẽ có định lực, sẽ không bị chuyện nhân ngã thị phi ở thế gian làm che mắt.
. Có một cư sĩ hết sức buồn bã vì đứa con theo đạo Cơ Đốc.
Bạn nên vui mừng cho con mình. Con có tín ngưỡng thì tốt hơn là nó chẳng có tín ngưỡng.
. Một ủy viên nọ nhất tâm theo Phật giáo nhưng vợ con là tín đồ kiên thành đạo Cơ Đốc (đạo Tin Lành ), hỏi rằng : Các tôn giáo khác nhau như vậy, làm sao xử sự với nhau ?
Tôn giáo phải như biển cả, bất kể là nước từ sông ngòi, khe lạch, cũng đều trở về biển. Mình cũng nên như biển cả : nhất định cần có tấm lòng rộng rãi bao dung, thương yêu và ngưỡng mộ kẻ khác (tôn giáo khác). Chỉ cần mình hành động đúng đăai nói rằng họ đúng mình chẳng cần tranh chấp. Chớ bao giờ nói rằng : tôi đúng anh sai .
.Có vị học giả nói : Tôi thường cảm thấy xã hội bất công. Trách nhiệm của tôi rất nặng, áp lực rất lớn.
Khi nhân sinh quan bất đồng thì tâm thái cũng khác biệt. Đối với kẻ vô thần (không có tín ngưỡng tôn giáo), tuy y hiểu biết rõ ràng thị phi thiện ác trên đời, nhưng một khi lòng y ôm ấp mối bất bình, càng ôm chí muốn sửa đời bao nhiêu thì áp lực càng lớn bấy nhiêu. Đối với kẻ có tín ngưỡng thì tuy cũng muốn cứu đời, độ sinh, nhưng họ khéo biết làm tròn bổn phận. Tuy họ có trách nhiệm nặng nề, nhưng tâm thái ắt hẳn rộng rãi nhu hòa.
. Bất luận là người làm chính trị hay tôn giáo, ai cũng cho rằng lý tưởng của họ là tốt cả. Rằng họ có thể đem lại hạnh phúc cho chúng sinh. Giữa chính trị và tôn giáo có khác nhau chăng ?
Kẻ chân chính vì tôn giáo thì vượt ra ngoài lợi lộc. Người làm chính trị thì ắt phải lập công, kiếm lợi. Đương nhiên giữa hai hạng người ấy có khác biệt chớ. Mà khác biệt rất lớn.
. Có người thành khẩn phát biểu : Lòng tôi có rất nhiều câu hỏi về Phật giáo.
Người nhà Phật thì gánh vác gia nghiệp của Như Lai, dẫn dắt người ta vào đường trí tín chứ không phải mê tín. Tôi thường nghe nói có người cầu tiêu tai, nên đi lạy Phật để cầu Phật bảo vệ. Kỳ thật học Phật, lạy Phật là dùng giáo nghĩa bát ngát bao la của Phật để khai mở trí tín, lương tri và lương năng của mình. Nếu nhìn một cách thấu triệt, cởi mở và buông xả thì sẽ có tâm lực để dấn bước tới trước. Nói tóm lại, tín ngưỡng là khai mở lòng tự tin nơi tâm mình; rồi mới dẫn dắt, tiếp độ lương tánh của kẻ khác được.
. Một thi nhân trẻ tuổi tới thăm tịnh xá lần đầu tiên hỏi rằng : trong thực tiễn sinh hoạt hoặc trên mặt đạo đức, kẻ tin Phật và kẻ chẳng tin Phật có khác biệt chăng ?
Kẻ tin hay không tin Phật, trên căn bản thì chẳng khác nhau mấy. Ai cũng là người, ai cũng sẵn đủ bản tính và thiện tâm. Dù chẳng tin Phật, người ấy chỉ cần phát huy bản tính và thiện tâm thì y cũng làm được việc lành như ai. Nhưng trong những người tin Phật thì có sự khác biệt giữa kẻ học Phật và chẳng học Phật . Người học Phật thì chắc chắn y theo tâm Phật, hạnh Phật, lấy việc cứu đời cứu người làm trách nhiệm của mình, thường xả thân vì đạo, hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã. Kẻ không học Phật thì chẳng thể trút bỏ sự tính toán hơn thua lợi hại cho bản thân. Hoặc vô ý hoặc cố ý, họ cứ thường nhắc đến (chuyện công đức của mình và) tâm nguyện cầu mong được bảo vệ khi làm phước (như cúng tiền xây chùa vì muốn hết bệnh, phát tài). Kẻ học Phật thì làm việc nhưng chẳng mong cầu gì cả. Giống như đức Phật, Ngài thành Phật là vì chúng sinh mà thành, chẳng phải vì chính mình mà Ngài thành Phật.
. Có một cô vì chồng bị đất lở chôn vùi được hơn một năm rồi, không chịu đựng nổi áp lực đè nặng trong tâm nên cô ta tới xin xuất gia để thoát phiền não.
Trong nhà cô, con cái hãy còn nhỏ, cần được vỗ về dạy dỗ. Bây giờ nếu cô phủi tay chẳng lo cho chúng thì thành ra thất trách, lại gia tăng nghiệp chướng cho mình. Cô nên ở nhà làm tròn thiên chức người mẹ đã.
2. NÓI VỀ VIỆC HỌC PHẬT
. Người thời nay thường chẳng phân biệt thần, Phật khác nhau ra sao. Cho Phật là một vị thần.
Phật không phải là thần. Chúng sinh khắp nơi đều có Phật tánh. Phật thì siêu phàm, nhập thánh, là bậc tôn quý nhất vì đã tự giác ngộ và giác ngộ kẻ khác. Ngài là vị đạo sư chân thật nhất.
. Tại sao cần xem Phật như bậc thánh (thánh hóa), nhưng không nên xem Phật là vị thần (thần hóa) ?
Thần và quỷ đều cùng một thứ, vì chúng vẫn còn tâm sân nộ. Do vậy chúng vẫn còn tùy nghiệp lưu chuyển trong tam giới. Phật, Bồ tát thương chúng sanh như mẹ thương con, chẳng oán cầu, bởi vậy Phật là thánh nhân, không phải là thần. Thần thì cách xa với người nhưng thánh nhân thì lúc nào cũng ở chung quanh ta.
. Tín đồ Phật giáo có ba hạng người : Người học Phật, người lạy Phật, người tin Phật. Rốt ráo thì hạng nào mới chân thành là tín đồ ?
Người học Phật mới đúng. Chúng ta phải học theo lòng tin của Phật, nghị lực của Phật, dũng khí của Phật; học tinh thần vĩ đại hy sinh tiểu ngã của Phật.
. Tôi rất muốn học Phật pháp nhưng chẳng biết mấy chữ nghĩa. Muốn học tụng kinh thì khó quá !
Phật nào muốn chúng ta đem giáo pháp của Ngài làm thành thứ văn tự kinh điển để dùng miệng niệm ê a đâu. Ngài muốn ta đem giáo pháp sử dụng như còn đường để mình đi. Phật giảng kinh, thật ra chính là giảng đạo (con đường), chỉ dẫn chúng ta làm sao đi. Do vậy, chúng ta cần siêng năng tinh tấn thực hành thì mới đúng là học Phật pháp.
. Vì sao chúng tôi cảm thấy Phật pháp thâm áo (xa vời ) quá ?
Nếu truy ngược lại trở về thời đại của Phật, thì lúc ấy Phật pháp chẳng phải bí áo gì đâu; nó thật sự bình dị gần gũi với mọi người. Lời dạy của Ngài dễ hiểu, chẳng huyền hoặc, bí áo; toàn là đạo lý dạy làm người trong sinh hoạt bình nhật mà thôi. Nhưng rồi trải qua thời gian lâu năm, lại thêm hậu thế nhiều người sùng kính Phật pháp nên khó tránh được việc trước thuật tinh thâm chú thích (như trước đã tác luận giải, sớ giải, thành lập hệ phái và triết học ). Nếu mình hiểu được rằng Phật giáo là một thứ giáo dục về tâm linh trong đời sống thường ngày, thì sau khi đã vào cửa Phật rồi, tự nhiên mình sẽ hiểu thấu chân lý nhân sinh mà Phật dạy.
. Người học Phật pháp thường hay đi tới chùa này chùa nọ, có tốt chăng ?
Có những người tuy tu học Phật pháp nhưng cõi lòng như biển thường dậy sóng, tự sinh phiền não. Có người lúc mới tiếp xúc với Phật pháp thì đã gấp gấp lạy Phật, niệm Phật, chẳng kịp nghiên cứu tìm hiểu xem ý nghĩa chân chính của Phật pháp là gì. Tu học Phật pháp thì ta phải nên ứng dụng những điều Phật dạy vào cuộc sống hàng ngày. Tính ngay thẳng là đạo tràng, tâm sâu sắc cũng là đạo tràng.
. Kinh là gì ?Vì sao cần tụng kinh ?
Kinh nghĩa là đạo, đạo nghĩa là đường. Tụng kinh giống như xem bản đồ, xem xong rồi nhớ tên đường, nhớ phương hướng; y theo kế hoạch để đi tới mục tiêu. Chúng ta tụng kinh thì mới biết được phương hướng để tu hành vậy.
. Rốt ráo phải nghe đạo như thế nào thì mới nhiếp thọ được Phật pháp ?
Lòng không chuyên nhất thì tuy nghe nhưng chẳng nhập tâm. Không chú tâm, dù nghe nhiều pháp cũng chẳng tới đâu. Phần lớn thính chúng : Nghe tai này ra tai kia. Đó là hữu lậu. Nếu bạn lắng tai nghe, sau đó chuyên tâm nhiếp thọ, thì mới gọi là vô lậu. Dùng căn (tai) vô lậu nghe pháp thì mới nhiếp thọ được Phật pháp.
3. NÓI VỀ CÔNG ĐỨC
. Hiến máu có phải là hiếu thảo với cha mẹ chăng ?
Thân thể của mình, mỗi giọt máu đều là của cha mẹ cả. Hiến máu, đem máu mình cho kẻ khác dùng, tức là báo đáp ân đức của cha mẹ. Bạn nghĩ xem, đem máu huyết (của cha mẹ cho ta) hiện đang tuần hoàng trong thân thể mình, đem truyền vào thân kẻ khác để cứu mạng sống của họ. Chẳng phải đó là thần thánh lắm sao ? Chẳng phải đó là công đức của cha mẹ mình sao ?
. Tụng kinh thật sự có công đức sao ?
Có người cho rằng cứ tụng kinh thì Phật sẽ bảo vệ, tiêu trừ tai nạn. Đó là quan niệm sai lầm. Phải biết chúng sinh ám muội, thường mê lạc, đi vào ngõ rẽ. Nên Phật giảng kinh thuyết pháp là chỉ cho ta biết phương hướng của đời mình.
. Ý nghĩa của niệm Phật là gì ?
Kẻ niệm danh hiệu Đức A Di Đà Phật thì có rất nhiều hạng khác biệt. Có kẻ thượng căn thượng trí, cũng có kẻ trí thức kém cõi. Kẻ thượng căn thượng trí chỉ niệm một câu A Di Đà Phật thì có thể hấp thụ vô lượng vô biên đạo lý, và thể ngộ Phật tâm. Kẻ trí thức kém cỏi thì trong một chốc chẳng thể nào hiểu hết đạo lý trong kinh, nên phải siêng năng niệm danh hiệu ĐứcDi Đà để cầu tiêu trừ nghiệp chướng, lắng lòng định tâm.
. Tôi thường nghe người ta nói phải niệm mấy vạn lần Phật hiệu thì mới được vãng sinh, có vậy chăng ?
Kẻ nói đó chỉ biết đếm số; tâm của y chỉ chú ý tới con số, không phải chú ý vào hồng danh Đức Phật.
. Tôi nghe nói rằng : tụng ba ngàn cuốn kinh Kim Cang thì có thể phá (chấp trước vào) danh tướng , phải chăng ?
Nếu có thể phá chấp trước vào danh tướng thì chỉ cần bốn câu kệ, bạn cũng có thể phá được vậy. Nếu bạn chẳng thể phá chấp, dù tụng một vạn cuốn kinh Kim Cang cũng vô dụng.
4. NÓI VỀ NHÂN QUẢ
. Một vị ủy viên, vừa mgồi xuống đã hỏi : Xin Sư xem nhân quả (đây là một cách hỏi hàm ý như hỏi xem bói, xem số).
Tôi chẳng biết xem nhân quả (xem số mạng). Nhưng chúng ta cần chú ý nhân quả (mọi chuyện mình làm).
. Quan hệ giữa nhân và quả hoàn cảnh ra sao ?
Nhân quả là định luật mà nghiệp lực theo đó hiển bày. Nghiệp lực thì dắt dẫn hoàn cảnh. Có thể sửa đổi nghiệp lực chăng ? Chẳng những ta cần có nghị lực, lại cần có thiện duyên thì mới sửa đổi được.
. Lúc nào thì vận hạn mới thôngsuốt ?
Ngày tháng trôi qua thì vận hạn sẽ thông suốt ,1 ngày ngày sống vui vẻ thì tâm sẽ tự tại.
. Vì sao con người chẳng thể tự chủ ? Tôi cảm thấy mình giống như kẻ ngốc cứ tùy theo hoàn cảnh sắp đặt, bị vận mạng an bài ?
Chỉ có kẻ phàm phu thì mới bị vận mạng hay đúng ra là nghiệp lực an bài. Thánh nhân thì tự họ an bài vận mạng. Làm sao an bài vận mạng ? Tức phải dùng sức mạnh của đức tin, chí nguyện và trí tuệ. Bạn phải kiên quyết phá trừ ác niệm, phiền não, thì trí tuệ mới phát sinh và nghiệp lực sẽ theo đó thay đổi. Mọi chuyện sẽ là giải thoát tự tại.
5.NÓI VỀ MÊ TÍN
.Có nhiều người thường hỏi :xem bói (coi số mạng) có ích chăng ?
Mệnh lý thì có, nhưng bạn chớ mê tín. Vận mạng vận khí, hay số mạng mà họ nói tức là nghiệp lực mà nhà Phật nói. Nếu bạn chỉ tin có nghiệp lực thì tự nhiên là phải có số mạng. Song, nhà Phật có dạy :mọi sự đều do tâm tạo. Phàm phu thì bị vận mạng thao túng. Thánh nhân thì tự mình chi phối vận mạng.
. Mẹ tôi thường đi xem bói, hỏi về số mạng. Phải làm sao ?
Có chánh tín, chánh niệm thì bản thân ta có thể sửa đổi số mạng. Nhiều nhà nghèo mà hội Từ Tế giúp là những người làm nghề bói toán đó.
. Thường có người vì sự nghiệp không thuận, thân thể không khỏe nên hòai nghi rằng bàn thờ ở nhà bày không đúng hướng hay có chỗ xúc phạm.
Nhà Phật dạy về định nghiệp và nhân quả. Chỉ cần tâm an ổn thì chỗ nào cũng được yên. Tâm an thì lý mới đúng. Trong đạo Phật, phương vị nào cũng tốt cả.
. Có người nghe theo lời thầy bói, hết sức tin tưởng làm theo, sợ phạm (vào ngày xấu, kỵ húy).
Nhà Phật không có gì gọi là mạo phạm. Phật giáo dạy mình tinh thần siêu thoát (vượt ra ngoài tranh chấp, mê tín), thì người mình chính khí lập tức xung mãn (có chính khí thì không còn sợ hãi gì nữa). Mỗi ngày mỗi tháng đều là lúc kiết tường cả (không có ngày nào cấm kỵ).
. Pháp thuật thần thông mà dân chúng tin vào có dính líu gì tới Phật giáo chăng ? Nhiều kẻ tín ngưỡng sâu thì nói đó là mê , phải chăng ?
Pháp thuật là quỷ đạo, không phải Phật giáo, cũng chẳng phải Đạo giáo. Đến như chữ mê thì phải xét tín ngưỡng của mỗi người. Đa số những người trong xã hội, với tâm niệm sợ hãi và hoảng hốt, chẳng thể tin tưởng hoàn toàn vào sự nghiệp họ làm, nên phải tin vào bói toán, xủ quẻ, v. v… Chẳng phải họ thâm nhập vào giáo lý đâu. Phật giáo chủ trương cải cách cuộc sống, đề xướng phương thức hợp lý; không phải chỉ là tôn giáo lễ lạy cúng kiến.
. Thật có linh hồn chăng ?
Kẻ mê thì gọi là linh hồn, kẻ giác ngộ thì gọi là giác thức.
6. NÓI VỀ TU HÀNH
. Làm sao tu hành ?
Là trong khoảng thời gian một niệm sinh khởi phải chú ý các niệm đến từ ngoại cảnh.
. Có người tu trì rất giỏi nhưng khi đụng phải một chút việc nhỏ xíu thì sinh bực dọc phiền não.
Tâm phàm phu rất dễ dậy sóng. Tuy tám gió chẳng làm động, nhưng gió nhè nhẹ thì lại động ngay. (Tám gió tức là ví dụ cho tám thứ hoàn cảnh dễ làm động tâm người, đó là : lợi lộc, suy hao, hủy báng, danh dự, khen ngợi, chê bai, khổ sở, khoái lạc).
. Tu hành và tu dưỡng khác nhau ra sao ?
Tu hành là tu tâm dưỡng tánh. Mỗi người tuy ai cũng có thói quen bất đồng, nhưng lại có Phật tánh giống nhau. Tu hành chính là giữ cho bản tánh tốt lành này. Do đó tu hành cũng là tu dưỡng.
. Có anh thanh niên ở Phật học viện hỏi về cách tu hành.
Mỗi ngày là một trang giấy của đời tôi. Những người tôi gặp, mỗi câu nói tôi nghe đều như những hàng chữ trên giấy. Tôi ở trong đời sống mà tìm được Phật pháp, không phải ở trong Phật pháp mà tìm được đời sống.
. Có hai vị Tỳ kheo ni tới tịnh xá hỏi rằng : Trên con đường tu đạo, phải chăng sư đã từng gặp khó khăn ?
Sư hỏi ngược lại hai cô kia : thế nào là gian nan ? Xưa nay tôi không có thì giờ nghĩ tới vấn đề gian nan.
. Có vị thích tham thiền.
Tham thiền không nhất định phải ngồi cứng một chỗ. Đi đứng nằm ngồi, gánh củi xách nước, đâu đâu cũng là thiền. Mình phải hành thiền, không phải thứ thiền ngồi cứng một chỗ.
. Lại hỏi : Thế nào là thiền ?
Ăn thì chuyên tâm ăn. Làm việc thì chuyên tâm làm việc. Tâm không để ý chuyện gì khác thì đó là thiền định.
. Thế nào là trì giới ?
Khi mình phạm tội lỗi (mà giấu giếm ) thì sẽ sản sinh mặc cảm phạm tội, từ đó dẫn tới đủ thứ thống khổ, khủng hoảng lo sợ, bất an. Trì giới là muốn đề phòng chuyện chưa xảy ra. Nếu mình hằng ngày ăn ở cho đứng đắn, tạo thành nề nếp quy củ thì tự nhiên tránh phạm lỗi lầm.
. Tâm tôi tốt là được rồi cần gì phải tu hành chứ ?
Tâm bạn tốt có ai biết ? Tâm mà tốt thiệt thì phải trải qua một phen huấn luyện. Luyện tới lúc tâm bạn phi thường tự động (không bị vọng tưởng, phiền não nhiễu loạn), chẳng chút xíu suy nghĩ tính toán, lập tức dang tay ra giúp đỡ kẻ khác. Vì vậy cần thiết phải tu.
7. NÓI VỀ THẦN THÔNG
.Có người muốn học ngồi thiền. Ngồi thế nào đó mà cả ngày bên lỗtai nghe có người nói chuyện. Chỉ có anh ta nghe, người khác chẳng ai nghe. Anh ta cho rằng đã đạt tới thiên nhĩ thông.
Kẻ có thiên nhĩ thông thì xa rời mọi phiền não tạp niệm, và mọi thứ âm thanh tạp nhạp, không thanh tịnh. Chẳng những y không nghe lời thị phi, mà còn biến lời thị phi thành Phật pháp, xem nó là một hình thức giáo dục. Những gì y nghe đến đều là pháp âm thanh tịnh. Đó mới đúng thật là thiên nhĩ thông.
. Có nhiều người cho rằng tu hành có thể khiến họ có thiên nhãn thông, thấy được tiên, Phật, quỷ, thần. Kỳ thật đó là quan điểm sai lầm.
Chỉ cần bạn nhìn suốt mọi chuyện, mọi việc trên đời một cách nhẹ nhàng, không chấp trước, tính toán, không chanh chấp thì đó mới chân chính là thiên nhãn thông.
. Nhiều người cho rằng họ có đầy đủ thần túc thông.Một ngày có thể đi tám vạn bốn ngàn dặm. Thật ra đó là việc không thể có.
Chân chính thần túc thông tức là con đường lộ trên thế gian, đường nào tôi đi cũng thông cả. Chỉ cần chúng ta giữ vững tâm thái quang minh chính đại, thành khẩn chính trực tiếp đãi mọi người, thì trong thiên hạ chẳng có việc gì khó làm. Một khi thiên hạ chẳng việc gì khó làm, thì đương nhiên, đường nào đi cũng thông suốt cả.
. Kẻ có tha tâm thông phải chăng có thể biết được điều kẻ khác đang suy nghĩ ?
Chỉ cần chúng ta có tâm ý cởi mở chân thành , hiểu biết người khác, việc gì cũng nghĩ đến người khác, thì người khác đâu cần gì che mắt chúng ta. Nếu như vậy thì sao mình chẳng hiểu thấu tâm ý người ta chứ.
. Túc mạng thông nghĩa là biết việc quá khứ, hiểu việc hiện tại, dự tri chuyện tương lai.
Mình muốn biết chuyện quá khứ vị lai, nhưng thật ra ngay bây giờ mình đã rõ ràng những chuyện ấy rồi. Rằng : Muốn biết nhân tạo ra trong quá khứ, thì xem những gì đời này họ thọ nhận. Muốn biết quả báo trong tương lai, hãy xem những việc làm đời nay. "Dục tri tiền thế nhân. Kim sanh thọ giả thị. Dục tri lai thế quả. Kim sanh tác giả thị". Chẳng phải bài trên nói rõ ràng cho ta thấy quá khứ và vị lai chăng ?
. Vô lậu thông là gì ?
Ho.c Phật pháp, mình chớ nên ham muốn cầu thần thông. Quan trọng nhất là phải trừ hết phiền não. Sau khi tiếp xúc Phật pháp rồi, ta nên hết lòng thực hành, phát huy tinh thần Bồ tát đạo. Đó mới chính là vô lậu thông thì tự nhiên sẽ được tâm thông. Khi tâm thông thì vạn sự đều thông. Nếu như vậy thì việc gì phải cắm đầu cắm cổ đi cầu thần thông.
Pháp Sư Chứng Nghiêm
Thích Giải Hiền dịch
Sàigòn 2001 ; PL. 2545