Bách Trượng Tòng Lâm Thanh Quy (Phần 2)

Chủ nhật - 26/06/2011 06:43
Bách Trượng Tòng Lâm Thanh Quy (Phần 2)

Bách Trượng Tòng Lâm Thanh Quy (Phần 2)

Lời thuật rằng, ở Tuyết Khê đại sư Nhân Nhạc thường nói: người Nho giáo có cái lo cuối đời là ngày bố mẹ mất. Con giòng họ Thích đâu chẳng thế ư? Đó là nhớ nghĩ đấng thân gian lao khó nhọc sanh ta.

 

 

Quyển ba

Báo đáp nguồn gốc

 

 

1. Chương ba: Báo Đáp Nguồn Gốc

Lời thuật rằng, ở Tuyết Khê đại sư Nhân Nhạc thường nói: người Nho giáo có cái lo cuối đời là ngày bố mẹ mất. Con giòng họ Thích đâu chẳng thế ư? Đó là nhớ nghĩ đấng thân gian lao khó nhọc sanh ta. Vì thế niệm nghĩ tới lòng thương yêu của cha mẹ ân đức thật là vô cùng, tâm hiếu giống nhau, quán xem ở đời phải như thế. Người xuất gia hình tướng sa môn con giòng họ Thích, đến ngày Phật nhập Niết Bàn mà không thiết lễ trang nghiêm cúng kiến sao? Tôi thật thương tâm! Xem lời này của đại sư cảnh tỉnh chúng ta phải giữ cho thật đúng Thanh Quy là ý nghĩa của Chương báo bổn này vậy.

Ngày đức Phật nhập Niết Bàn còn như thế, hẳn ngày Phật Đản cũng vậy, có nghĩa là phải tổ chức lễ tưởng niệm. Ngày Niết Bàn tiếp theo tâm thành mừng ngày Phật Đản có hoa Ưu Đàm nở nên đi vào phần báo bổn. Ý của phần này sâu sắc cũng như các ngày vía Phật Dược Sư, Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng, Chuẩn Đề… phải có nghi Khánh Đản. Cũng cần nói thêm rằng, vì chư Phật, Bồ Tát bi nguyện sâu rộng biểu tỏ cho người đời khâm kính.

1.1 Đức Phật Thích Ca đản sanh

Ngày giáng sinh của Phật Thích Ca, xưa là mồng 8 tháng 4, nay (theo qui định từ kỳ đại hội PGTG lần đầu tiên 1950 tại Columbo – Tích Lan) là Rằm tháng 4 âm lịch, lễ Phật Đản.

Viết thông báo gởi đài phát thanh, đăng báo, dán ở trai đường, phòng khách. Đại ý như sau:

Để kỷ niệm ngày lịch sử trọng đại, đức Phật ra đời cứu độ quần sanh hướng về giác ngộ, đại lễ Phật Đản sẽ được long trọng tổ chức tại… vào ngày… tháng… năm… (tức ngày… tháng… năm… âm lịch) vào lúc… giờ.

Kính mời quý Phật tử cùng gia quyến, bằng hữu về Chùa lễ Phật, nghe pháp, thọ trai…để kết pháp duyên với Phật pháp.

Kính chúc quý vị vô lượng an lạc, hạnh phúc và mong đón tiếp bà con vào ngày lễ Phật Đản như quy định.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tại chùa nội dung thông báo viết như sau:

Ngày mai nhằm ngày đức Bổn Sư Thích Ca từ phụ giáng sanh, tối nay xin mời đại chúng nghe chuông, đắp y, cầm tọa cụ tập trung tại chánh điện. Tới giờ chúng tập họp chỉnh tề, vị trụ trì niệm hương xong cắm lên lư; Thầy Duy Na cử tán bài:

Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,

Thập phương thế giới diệc vô tỉ,

Thế gian sở hữu ngã tận kiến,

Nhứt thiết vô hữu như Phật giả.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

Trên trời dưới thế không ai như Phật

Mười phương các cõi chẳng so bằng

Những gì mắt con tận thấy ở đời

Hết thảy không một ai như đức Phật.

Tiếp theo tụng chú Đại Bi, bài Kinh Khánh Đản, niệm Phật Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Nam Mô Đại Trí Văn Thù, Đại Hạnh Phổ Hiền, Đại Bi Quán Thế Âm…

Nam Mô Thập Phương chư Phật, chư Đại Bồ Tát
(mỗi hiệu 3 lần).

Tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục nguyện, tự quy y…

Xong đại chúng lui về hậu liêu, thỉnh Ngài Phương Trượng thuyết pháp. Tới ngày lễ chính, sáng thức dậy tụng Kinh Lăng Nghiêm như thường lệ, lạy thù ân chúc tán xong, đại chúng lui về nghỉ rồi dùng điểm tâm sáng. Trước giờ ngọ, nghe hiệu lệnh, tất cả tập trung lên chánh điện, niệm hương tán Phật, tắm Phật xong, phục nguyện:

Phật pháp trường tồn

Giáo pháp hưng long

Chúng sanh an lạc

Gió thuận mưa hòa

Lúa thóc được mùa

Giặc giả lui tan

Khủng bố đầu hàng

Thiên tai dứt sạch

Bịnh dịch không còn

Tăng tín an khang

Đạo tâm kiên cố.

Khắp nguyện:

Pháp gìới chúng sanh

Hữu tình, vô tình

Đồng thành Phật đạo

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nên thiết tôn tượng Đản sanh nhỏ - Thái Tử Tất Đạt Đa - một tay chỉ thiên, một tay chỉ địa; các thau nước có để hoa thơm sẵn, gáo múc.

Chủ lễ cử bài:

Ngã kim quán mộc chư Như Lai,

Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ,

Ngũ trược chúng sanh linh ly cấu,

Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân.

Án Mâu Ni Mâu Ni Tam Mâu Ni Ta Bà Ha (3 lần).

Con nay tắm gội đức Như Lai

Trí sáng trang nghiêm hàm công đức

Năm trược chúng sanh lìa cấu trần

Đồng chứng Như Lai đức pháp thân.

Đại chúng cùng đi chung quanh tượng sơ sanh, mỗi người múc nước hoa rưới lên tượng và xá 1 xá, xong chuyền gáo cho người kế tắm Phật… Tất cả cùng đọc chú:

Án y mộ già, phế rô giả ra, ma ha mẫu đà la Ma Ni, Bát Đầu Ma, nhập phược la, Bạt la miệt Đơn Dã Hộc (7 lần).

Án Để Sa Để Sa Tăng Già Ta Ha (7 lần).

Tắm Phật xong, đại chúng trở lại vị trí cũ. Thầy Duy Na đọc văn tác lễ:

Cung kính nghe rằng, hiện tướng pháp thân

Từ quang sáng chiếu cung Vua Tịnh Phạn

Hóa Phật hiện thân nước Ca Tỳ La

Sanh ra thân màu vàng ánh

Một tay chỉ lên trời thân ngà gội tắm

Cảm động chín rồng đồng phun nước

Nhìn 4 phương, 7 bước sen nở hoa

Nói trên trời dưới thế chỉ riêng ta

Được trời người tán dương ngợi ca

Không màng ngai vàng điện ngọc

Bỏ cung son vào tu núi Tuyết

Mười chín tuổi xuất gia chí quyết

Chứng Phật Đà tuổi thiệt ba mươi

Thuyết giảng Kinh 5000 bộ có dư

Cửa phương tiện độ 3 thừa tuần tự

Thọ mạng kéo dài 80 năm tròn đủ

Đưa 7 chúng vào đường giác ngộ

Nhớ xưa đời Châu Chiêu Vương

Năm Giáp Dần thứ hai mươi bốn

Tính từ ngày Phật giáng thế đến nay

Khoảng 10 thế kỷ tới triều Đại Thanh

Pháp mạch chấn hưng hoàn bị

Trong số nhiều bậc cao đức sanh thành

Nay biểu tâm thành mừng lễ đản sanh

Đàn tràng thanh tịnh, tăng đức nghiêm minh

Bồn vàng thiết đặt nâng cao

Dễ trông Tất Đạt hồng hào kim thân

Nước thánh thân tắm dung nhan

Ngữa trông đức mẫu Ma Gia phu nhân

Muốn hầu kề cận hào quang Phật Đà

Cùng nhau cất giọng xướng hòa sấm vang.

Duy Na đọc xong, bắt tán bài:

Trên trời dưới thế không ai giống Phật

10 phương các cõi chẳng ai sánh bằng

Những gì mắt con tận thấy ở đời

Hết thảy không một ai như đức Phật.

Lâm Tỳ Ni lúc giáng sanh

Được trời rồng phun nước tắm gội

Phật đầy đủ mọi sự tốt lành

Con nay tắm Phật cũng như vậy

Là tắm gội các đức Như Lai

Phước trí trang nghiêm công đức nhóm

Chúng sanh năm trược khiến đều lìa

Cùng chứng pháp thân thanh tịnh Như Lai

Hoa hương đèn nến thật trang nghiêm

Cúng dường pháp-báo-hóa thân Như Lai

Mong đức từ bi thọ pháp cúng dường

Nguyện tột đời vị lai làm Phật sự.

Tán xong xướng tiếp:

Các báu trang nghiêm vi diệu tòa

Trân quí xen đan kết đài hoa

Y pháp thiết bày dâng cúng hiến

Nguyện đức từ bi nạp thọ ngay.

Án y mộ già, Bát Đầu Ma, Tôn Na Lệ, Đà Ra Đà Ra nể, mạn nổ lệ hồng (3 lần).

Duy Na bắt bài cúng dường, đại chúng tụng hòa theo:

Nguyện hương hoa đèn này,

Biến khắp cõi 10 phương,

Cúng dường Phật-Pháp-Tăng,

Thọ nhận làm Phật sự.

Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hộc (3 lần).

Đọc tiếp:

9 rồng phun nước,

Tắm gội kim thân,

Trên trời dưới thế chỉ Phật tôn,

7 bước nở sen hồng,

Uy đức Ngài lồng lộng,

Các cõi gội nhuần ân.

Nam mô kiết tường hội thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Đến đây tụng hồi hướng, phục nguyện, tự quy y. Xong đại chúng lui về hậu liêu.  Nên nhớ thiết lập đàn tràng luân phiên tụng niệm, viết 2 câu này trương lên phía sau bàn Phật.

·Công viên vạn đức vị chứng nhứt thừa, thị thiên trung thiên, thượng vô nhị thượng

·Hoành biến thập phương, thọ cùng tam tế, thành Phật đảnh Phật, tôn duy độc tôn

Trước Phật 2 câu này: 

·Bổn dĩ tích chương, thủ quần linh nhi thành chánh giác

·Cơ nhân thời ứng, tùng ngũ trược nhi thị giáng sanh

Trước cửa Chùa:

·Thoát trân phục, trước tệ y, phiến chân phong ư mạt thế

·Xả hóa thành, đăng bảo sở, yết huệ nhựt ư trung thiên

Bên hông chánh điện:

·Vô Phật vô ma, sát sát tuyên dương chánh pháp

·Phi cấu phi tịnh, trần trần quán mộc kim khu.

Nghĩa 4 cặp câu đối:

1- Vạn đức công viên chưa chứng nhất thừa, hiện cõi trung thiên, vô thượng y vương

2- Thành Phật tột Phật, duy nhất độc tôn, tận cùng ba thuở, dung khắp mười phương

1- Xưa lấy tích chương, nhiếp quần sanh mà thành chánh giác

2- Cơ duyên hợp thời, từ năm trược mà hiện giáng sanh.

1- Thoát hoàng bào, mặc y vá, quyết chấn hưng thời mạt pháp

2- Bỏ hóa thành, vào bảo sở, ngời tuệ giác cõi trung thiên.

1- Không Phật không ma, niệm niệm tuyên dương chánh pháp

2- Chẳng dơ chẳng sạch, trần trần tắm gội kim thân.

Chứng nghĩa ghi rằng, từ trước tới nay tại các chùa viện chỉ tắm tượng Thái Tử đản sanh, chưa nghe có lễ tắm Phật, hầu như là mất điển tích. Lễ tắm Phật chỉ xuất hiện từ đời Minh, Thanh, trong Đại Tạng Kinh có ghi rõ, dựa theo kinh để nói. Trước lập đàn giữa nền sạch, dùng một chiếc bàn trải khăn lên trên, trênbàn đặt thau nước hoa, trong thau để gáo múc có tay cầm, dùng gáo múc nước tắm tượng Tất Đạt Đa. Mỗi người dùng 2 ngón tay lấy ít nước tắm Phật, miệng đọc chú tắm Phật: Con nay tắm sạch thân Như Lai… như trên.

Nước xối nhẹ lên đầu tượng gọi là nước mát lành. Tắm tượng xong lấy vải lau sạch sẽ, rồi đặt tượng trở lại vị trí cũ. Việc làm này ý bao hàm một đời giáo hóa của đức Phật.  Nay lục lại nguyên gốc để chỉ cho người mới học. Dựa theo nước Ấn Độ có chia ra đông, nam, tây, bắc, trung ương năm nước lớn. Phật sanh ở Trung Thiên Trúc thuộc gia đình hoàng gia nước Ca Tỳ La, giòng Sát Đế Lợi, tên là Cù Đàm, tiếng Phạn là Gautama, Trung Hoa phiên âm là Cam Giá. Thủy Tổ Vương tiên bị người thợ săn bắn chết, máu loang ra đất mọc lên 2 cây mía, mặt trời thiêu chín một cây sanh ra một nam tử hiệu là Cam Giá Vương. Một cây là nữ, vợ vua tên Thiện Hiền, sanh người con trai làm vua Chuyển Luân dùng mặt trời thiêu đốt, còn gọi là Nhựt Chủng truyền tới 700 đời đến vua Tịnh Phạn. Phật do công phu tu hành nhiều kiếp đầy đủ, từ cung trời Đâu Suất giáng xuống hoàng cung chun vào hông bà Ma Gia phu nhân. Bấy giờ nhằm năm thứ 24 đời Châu Chiêu Vương, hay còn gọi là năm Giáp Dần thứ (624 BC). Ngài sanh mồng 8 tháng 4, tên là Tất Đạt Đa. Sau khi sanh được 7 ngày, mẹ mất bà sanh lên cung trời Đao Lợi. Nhờ bà dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi nấng, đến năm lên 19 tuổi, Thái Tử vượt thành đến rừng Bạt Già Tiên, lấy kiếm cắt tóc, cổi áo hoàng bào đổi cho thợ săn, mặc áo ca sa làm vị khất sĩ. Ngài đến tham học với các tiên nhơn nhiều nơi, lại tới vùng Bắc sông Hằng tu thiền tại núi Già Xà hơn 6 năm khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo để duy trì sự sống. Ngài lại suy nghĩ: nếu xả thân mà giữ đạo, bọn ngoại đạo sẽ cho là ta đói, là nguyên nhân nhập Niết Bàn. Bèn tới dòng sông Ni Liên tắm rửa xong và nhận một bát sữa của nàng chăn bò dâng cúng. Uống sửa xong, Ngài đến dưới cây Bồ Đề, được trời Thích Đề Hoàn Nhơn đem cỏ kiết tường trải cho Ngài ngồi kiết già tọa thiền.

Ngài phát lời thệ nguyện:

-     “Ngồi dưới gốc cây này, nếu không thành đạo chứng quả, dù thịt nát xương tan, Ta quyết không rời khỏi nơi đây”.

Ma Vương Ba Tuần muốn làm hại Ngài nên tìm bách kế quấy nhiễu như nói rằng:

-     “Ông nay mau nên đứng dậy trở về hoàng cung. Nếu không làm thế ta sẽ xách chân ông quăng ra ngoài biển khơi.”

Lúc đó Bồ Tát như sư tử chúa, tâm không chút kinh sợ, bảo với ma rằng:  “Ngươi từng cúng dường một vị Bích Chi Phật, thọ 8 trai giới, do phước này nên được làm thiên vương. Nhưng ta đã trải qua vô số kiếp tu hành thành tựu hạnh khổ hạnh khó hành. Cõi đại địa như kim nhọn đâm mình, nếu như xưa ta không tu khổ hạnh, giá như quân ma nhiều như cát sông Hằng cũng không làm động đến một sợi lông ta. Tại sao nay ngươi muốn đem Ta quăng ra ngoài biển?”

Ma lại nói:

-     “Ta trong thuở xưa cúng thí cho một vị Bích Chi Phật mà được làm thiên vương, việc này đã rõ ràng. Nay ngươi nói đó lấy gì chứng minh?”

Ngay lúc đó Bồ Tát mở tay chỉ xuống đất nói:

-     “Đây hãy biết Ta.”

Lúc bấy giờ Địa Thần từ mé Kim Cang chui thân hiện ra, chấp tay bạch rằng: “Thật đúng là tôn giáo từ đất này mà đến. Ta là thần cuộc đất đây không có thứ kim nhọn, chẳng phải là chỗ bổn hạnh của Bồ Tát.”

Ma nghe lời này bèn rơi trong điên đảo làm lễ sám hối tội rồi bỏ đi. Bồ Tát dẹp bọn ma xong ngày mồng 8 tháng 12 lúc sao mai vừa mọc hoát nhiên đại ngộ thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Nhân gian truyền rằng Phật thành đạo mồng 8 tháng chạp, có nghĩa là thuyết này đúng lúc đó ngài 30 tuổi. Tại Ma Kiệt Đà, đại học Na Lan Đà, Phật vì Đại Thừa Bồ Tát nói Kinh Hoa Nghiêm, hàng Tiểu Thừa không thấy không nghe như người đui điếc. Do trời Phạm Thiên, Đế Thích thưa thỉnh Phật bèn tới vườn Lộc Uyển vì năm anh em ông Kiều Trần Như mà nói pháp bốn chân lý (tứ đế) cũng như nhơn quả của nhân thiên trải qua 12 năm.

Lúc 42 tuổi, Phật nói Kinh Phương Đẳng để dạy hàng Đại Thừa chuyển đại pháp luân. Nói sáu độ chọn lọc đệ tử, nói Kinh Duy Ma, Lăng Già trong 8 năm. Năm 50 tuổi, phần lớn Phật thuyết Kinh Bát Nhã để loại bỏ bớt kẻ tình chấp nặng trong 22 năm.

Lúc 72 tuổi, Phật giảng Kinh Pháp Hoa trong 8 năm, để cho chúng đệ tử nhận lãnh trọng trách và thọ ký ai làm Phật mới mãn nguyện bổn hoài của Ngài. Vào đời Mục Vương thứ 53 năm Nhâm Thân, lúc đó Phật 79 tuổi Ngài sắp nhập Niết Bàn. Trước hết Phật tới trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân nghe. Di mẫu bà Đại Ái Đạo cùng 500 tỳ kheo ni, Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v.. và 7 vạn A La Hán không đành lòng thấy Phật nhập Niết Bàn, tức có nghĩa là nhập diệt. Đến năm sau ngày rằm tháng 2 âm lịch, Phật đến ngoại ô thành Câu Thi Na để nhập Niết Bàn. Mười cõi đều có mặt, mỗi người đem cúng đồ đẹp xinh Phật đều không nhận. Cuối cùng, ông Thuần Đà cúng dường bữa cơm Phật thọ nhận.

Ngài vì chúng tỳ kheo thuyết pháp thường lạc ngã tịnh, và dạy y theo giới luật làm thầy, y bốn niệm xứ mà an trú. Phật còn dạy: “Chánh pháp vô thượng Ta đã phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp nên các Thầy phải một mực y chỉ hành trì.” Do vì Như Lai biết A Nan bị ma quấy nhiễu ở ngoài rừng Sa La, nên bảo Văn Thù rằng:

-     A Nan là em Ta, theo làm việc với Ta hơn 20 năm, nghe pháp và nhớ kỹ đạt đến chỗ không thể nghĩ bàn, như nước đựng trong bình chứa, muốn thọ trì là Kinh Niết Bàn.

Bồ Tát Văn Thù vâng lời Phật dạy, đem chú hàng phục ma ra bắt A Nan về. Phật dạy:

-     Có một người Phạm Chí tên là Tu Bạt Đà La 120 tuồi chưa bỏ kiêu mạn, ngươi có thể bảo với ông như vậy.

Như Lai trong đêm nay phải nhập Niết Bàn, tức thời ông ta cùng đến nghe Phật thuyết pháp bèn chứng quả A La Hán.

Phật bảo đại chúng:

-     “Từ khi Ta đắc đạo trước độ anh em Kiều Trần Như và sau cùng độ Tu Bạt Đà La. Công việc ta đã xong.”

Trong đêm rằm tháng 2, Phật nói Kinh Di Giáo, lại chỉ dạy rõ ràng:

-     “Tỳ Kheo các con, sau khi Ta diệt độ nên tôn trọng Ba La Đề Mộc Xoa (giới luật), đó là vị đại sư của các con, như Ta còn ở đời không khác vậy”.

Lúc đó giữa 2 cây Sa La, Phật nằm nghiêng bên hông phải và tịch diệt, yên lặng như tờ. Phật nhập thứ đệ định vào ra thuận nghịch, tất cả 27 lần, 3 vòng xong, Ngài xoay bảo đại chúng:

-     “Lấy Bát Nhã chân không thật tướng làm bổn nguyên; sau khi Ta niết bàn, đệ tử A Na Luật lên cung trời Đao Lợi báo cho Ma Gia phu nhân biết.” Bà từ cõi trời xuống, đức Thế Tôn vạch kim quan đứng dậy thuyết pháp an ủi mẹ.

Lại bảo A Nan:

-     “Nên biết là về sau này có những chúng sanh bất hiếu, nên Ngài từ Kim quan bước ra hỏi thăm mẹ…”

Phật nhập Niết Bàn 7 ngày sau, Ca Diếp xuất định mới biết Phật đã thị tịch bèn dẫn theo 500 đồ đệ đi bộ từ núi Kỳ Xà Quật đến rừng Câu Thi Na khóc lóc lễ lạy. Phật đưa 2 chân ra khỏi kim quan cho Ca Diếp và chúng đệ tử thấy. Hai tuần lễ sau trời người mang hương hoa tới nơi làm lễ hỏa thiêu, tức là làm lễ hỏa táng. Bảy ngày sau các đệ tử thâu xá lợi cho đầy vào 8 hủ báu. Vua A Xà Thế cùng 8 nước tranh nhau đoạt xá lợi. Sau khi nghe phân giải họ ngưng tranh chấp và 8 nước, mỗi nước thỉnh một phần xá lợi đem về xứ phụng thờ. Đến 100 năm sau Vua A Dục dùng thần lực cho thâu xá lợi lại trong một đêm dựng 84,000 tháp và mỗi tháp thờ một phần xá lợi. Vua cũng chỉ định cho tôn giả La Hán Da Xá phóng 84,000 tia sáng theo ánh sáng tới các tháp xá lợi; trời, người, 8 bộ chúng đều được dự phần cõi nước đều chấn động. Theo ngành khảo cổ truyền rằng, có 19 tháp nay còn rất linh thiêng mà theo như tác giả, tháp chùa A Dục tại Ninh Ba là một trong số đó.

1.2 Lễ Phật Thành Đạo

Ngày mồng 8 tháng 12 âm lịch là lễ vía Phật thành đạo. Sắp tới ngày lễ, viết thông bạch gởi đăng báo, đọc trên đài phát thanh, dán tại trai đường, phòng khách. Sáng hôm làm lễ kỷ niệm, sau khi tụng chú Lăng Nghiêm, lạy chúc Thánh. Buổi sáng có thuyết pháp, cúng ngọ giống lễ Phật Đản. Nghi tiết như sau: lễ niệm hương, cắm hương lên lư, Thầy Duy Na cử tán bài:

Lư hương sạ nhiệt,

Pháp giới mông huân,

Chư Phật hải hội tất giai văn,

Tùy xứ kiết tường vân,

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Tụng bài cúng dường : Nam Mô thường trụ…., châm trà, hiến phạn… do thị giả bưng cúng; Thầy Tri Khách lấy đặt trên bàn, xong lạy 3 lạy; vẫn đứng nguyên và đọc chú Phổ cúng dường: Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hộc (3 lần). Duy Na ra trước dâng hương lễ 3 lạy và quỳ gối chấp tay bạch…

Tất cả các lễ vía Phật, Bồ Tát trước lễ cúng ngọ đều giống như phần này. Tuy lời văn bạch có khác nhau như sau:

Cung kính nghe rằng, từ vô lượng kiếp, Ngài thành Phật đâu chẳng mượn chỗ tấn tu vì thương chúng sanh lâu ngày chẳng biết mà chỉ rõ tánh giác: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thành chánh giác; thế gian, xuất thế gian đều xưng là Thế Tôn. Phật một đời giáo hóa, tuân theo quy tắc chư Phật quá khứ, ngồi dưới cây Bồ Đề, hàng phục ma quân, như hoa Ưu Đàm tỏa sáng. Bánh xe pháp như đèn sáng thường vận chuyển ví như mặt trời mới mọc trước tỏa ánh quang, nhưng sau cùng biểu hiện hiện giơ cành hoa trao truyền; trông lại lớp sau làm gì biết được! Tụng lời Phật di giáo mà ngậm ngùi. Nay ngày mồng 8 tháng chạp nhân lễ vía đức Thế Tôn thành đạo, hiện chúng con sắm sửa ít hương hoa, phẩm vật cúng dường kỷ niệm. Nguyện cho sắc – không, sáng - tối hàm tuyên pháp âm vi diệu soi các loài hàm thức nhỏ nhiệm thảy nhờ trí tuệ đức tướng rọi soi.

Đọc lời cung bạch xong vẫn đứng nguyên, cử tán:

Mồng 8 tháng chạp ngộ tánh linh,

Bồ Đề đạo tràng chánh giác Phật thành,

Nửa đêm lúc sao mai vừa mọc,

U ám dứt xuất hiện bình minh,

Phật cứu độ hết thảy quần sinh.

Thuyền duyệt tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Thường thường vào ngày lễ vía như hôm nay, chúng luân phiên tụng niệm thành nhiều ban, thuyết pháp, cúng ngọ v.v…

Phần thêm: đọc phần sau đây:

Bậc chánh giác giác ngộ lúc sao mai vừa mọc

Cõi đại thiên thiên hạ giương tuệ chiếu lưu truyền.

Chứng nghĩa ghi rằng: đức Thế Tôn lúc mới thành đạo than rằng, kỳ lạ thay hết thảy chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai; chỉ vì vọng tưởng chấp vướng nên không thể chứng đạt được, để thấy đạo chân thật mà ai cũng có thể thành tựu. Người không chứng được bị chìm đắm trong 5 dục vọng, vọng tưởng tình trần. Bởi thế nên tai dù nghe, như kẻ điếc không nghe tiếng chuông trống; mắt tuy thấy như người mù không thấy trời trăng. Luận cái lớn của đạo hẳn trong trời đất không đủ để đo lường được, nên không có phạm vi đo lường hết, không đủ để vào đạo, là cái quí của đạo vậy. Người sang chưa đủ thấy làm vinh, nên không thấy kẻ sang ở đời học đạo; không đủ để nhập đạo, nên xa đạo vậy. Nhiều kiếp không đủ để kỳ hẹn, nên không thể một niệm biết vạn niên không đủ để nhập đạo. Cho nên có câu rằng: “nói đạo dễ, thành đạo khó, chứ đạo chẳng khó mà tự người khó vậy.” Người xưa nói: sử đạo cống hiến chớ không thể hiến vua; đạo là mình tiến chớ không phải người thân tiến. Đạocó thể hiến chớ không thể hiến con cháu. Thật là lời chính xác vậy thay! Có nghĩa rằng tự tánh tự độ cho nên hàng Thích tử chúng ta đối với ngày này nên nghĩ sâu để có đức trí tuệ của lời nói, không nên tự khinh mà lui sụt vậy.

1.3 Vía Phật Nhập Niết Bàn

Ngày 15 tháng 2 âm lịch là ngày đức Phật nhập Niết Bàn. Như thường lệ, chùa ra thông báo, đăng báo, đọc trên đài phát thanh, dán nơi trai đường, phòng khách. Thông báo viết: nhằm ngày đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Niết Bàn, sáng nay đại chúng khi nghe chuông hiệu lệnh, đắp y chỉnh tề vân tập chánh điện. Nghi thức giống như lễ Phật đản, đúng ngày sáng hôm đó lễ Chúc Thánh thù ân như mồng một, rằm. Tuy nhiên, ngày Phật Niết Bàn có khác là các Thầy nghe chuông trống theo thứ tự tiến vào chánh điện lễ đức Thích Ca Như Lai niết bàn bằng sám văn và tụng kinh Di Giáo. Chi tiết giống như vía Phật Thành Đạo. Tuy nhiên, lời văn đọc thay đổi như sau:

Cung kính vì bậc Năng Nhân ra đời chứng chân vắng lặng, bổng nghìn cõi quí tôn, vỗ về chúng sanh như con ruột. Hình tùy vật hiện như nguyên sơ thân chẳng phải thân tướng. Giáo hóa tùy cơ hưng long đâu khác đạo vô ngôn mấy, chừng như pháp luân chuyển vận ứng hợp mà phát triển. Nửa chữ luận ban đầu ví như cung tay mà thu rút lại; trăm thoi vàng sau khi gởi do đổi mạng chỉ để chưng bày, làm cho phiền não đều vén dẹp, an trụ trong Như Lai tạng. Bốn tâm[1] viên mãn, ba đức[2] quy về, nên nói chẳng làm cho một người duy nhất được diệt độ nhưng Phật diệt độ nên mới diệt độ vậy. Vì thế, nhập vào Niết Bàn không thể được mà suy nghĩ, chúng ta đã xa rừng hạc, đau buốt xót xa duyên đời trước trong đời tượng Pháp tuân lời Phật dạy. Nay nhằm giữa mùa xuân, nghĩ miên man nghi cách của Bắc thủ, khe suối róc rách cỏ tần, biểu tỏ tiến cúng lễ mọn, dâng hương xưng tán đức. Trải chút lòng thành mong rủ hồng ân chứng tri soi xét… Xong cử tán:

Từ phụ bậc vô thượng y vương,

Xót thương con trẻ bịnh bày ấn phương,

Như mây vần pháp tánh chân thường,

Thọ mạng vô cùng thật khó nghĩ lường.

Thuyền duyệt tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Hoặc tán bài:

Đại định thường trong hằng hà sa kiếp

Mãn cơ ứng hóa hiện trăm ức thân.

Nguyên bản thuật rằng, tánh ấy là gốc của con người; chấn động trời đất mà không biết lúc khởi đầu; khắp cùng muôn đời mà không biết lúc chung cuộc. Phật và chúng sanh đều có tánh ấy, ngộ tức lên bậc diệu giác; mê là trôi lăn sanh tử, từ kiếp này sang kiếp khác xuống lên trong 6 đường, nghiệp báo xoay vần không cùng tận. Vì thế, nương theo lời Phật dạy chịu khó làm chỗ nương tựa; ta có thêm y phục dự vào dòng pháp, tuân theo thực hành là luật, tuyên lời Phật dạy là pháp giáo hóa, truyền bá cái tâm ấy là thiền mà tuần tự là chánh tông. Vì đồng với toàn thể diệu dụng của Phật mới gọi là con Phật mà duy trì huệ mạng vậy. Kỷ niệm ngày húy nhựt đâu phải chỉ lễ nghi ở đời đủ sao?

Chứng nghĩa rằng, căn cứ Kinh Đại Bát Niết Bàn, lúc Phật Niết Bàn có dạy rằng, hiến cúng như mây, nước mắt tan như mưa, ôi thương xót làm sao! Ngoài ra, đọc tạng Thanh Minh theo như phần hàm thật, văn tán thán lễ đức Thích Ca Như Lai Niết Bàn, diễn tả tướng trạng Phật Niết Bàn như hiện ngay trước mắt, mà tỏ lòng luyến mộ khôn xiết. Hiện tại người ta ít biết được, dứt tuyệt mà không nêu rõ là đại mất gốc. Chỉ Ngài Tư Tề đại sư xướng hội Niết Bàn ở chùa A Dục tại Ninh Ba, nhóm chúng buổi sáng lễ Xá Lợi mà đời luôn nhắc tới; có người hỏi rằng, ta nghe pháp thân chư Phật biến khắp mọi nơi chốn, vốn không xuất thế mà lấy Niết Bàn là ngày kỵ gì? Cho chí đệ tử thiền tông đơn phương nêu rõ khiến Phật còn không có, Niết Bàn làm gì có. Nay trong pháp không sanh diệt, vọng thấy cósanh diệt, trên dâng cúng lễ sám, đâu chẳng do tâm mê chấp cảnh mà không đạt lý tánh chứ?

Sư trả lời:

-     Ngươi biết pháp thân thường trụ mà không biết ứng thân mất; biết pháp biến cùng khắp mà không biết ứng thân có chỗ, chẳng phải ứng thân. Pháp thân hiển hiện tự nhiên không có xá lợi, ai biết gốc tích? Đã nói pháp thân thường trụ đâu có xen vào ứng thân; đã nói thể pháp biến cùng khắp thà riêng có xá lợi. Ngươi muốn bỏ sự cầu lý, bỏ hữu bàn không; sự tướng còn mê huống gì lý tánh ư? Xưa Đại Ca Diếp sắp vào núi Kê Túc hẳn lễ quanh các tháp sau mới nhập thiền định. Luận về Ca Diếp là sơ Tổ thiền tông há không đạt lý tánh đương nhiên ư? Nên biết đức Như Lai nhập Niết Bàn thật không thể nghĩ bàn; phi thường phi đoạn, phi hữu, phi vô; không nên lấy biên kiến mà sanh ra phân biệt. Ngươi chấp pháp thân thường trụ là không thấu đạt Như Lai khéo dùng phương tiện, là việc lợi ích chúng sanh. Do vì không hiểu lý thâm sâu lời dạy mà đưa tới như vậy, ôi thôi !

Tự Sư đề xướng lập hội Niết Bàn, người sau cứ theo đó mà làm cho đến nay không dứt khiến nhiều người biết ân đức của đức Phật mà hết lòng báo bổn. Công đức của Thầy có thể nào lường được không? Song lạy xá lợi không hẳn cần phải ràng buộc trong hội này. Muốn cầu sám tội, báo ân không buộc mà lúc nào cũng đều có thể thực hành được. Sách Vân Thê Thiên Hành Lục ghi rằng, Đường Tử Lân họ Phạm, mẹ họ Vương không tin Tam Bảo. Lân tới Đông đô vào chùa Quảng Thọ xin Khánh Tu luật sư xuất gia, bổng nghĩ tới mẹ bèn trở về. Cha mù mắt, mẹ mất 3 năm. Nhân tới miếu thần trải tọa cụ tụng Kinh Pháp Hoa thề gặp Nhạc đế, mong biết mẹ sanh chốn nào. Một đêm kia Nhạc đế gọi bảo rằng: “mẹ ngươi bị giam ở địa ngục và hiện thọ bao thống khổ.”

Lân kêu khóc xin tha. Đế nói:

-     Có thể vào núi lễ bái ở tháp A Dục mới mong cứu thoát.

Lân liền tới tháp khóc lóc lễ lạy đến 4 vạn lạy. Chốc lát nghe tiếng kêu, Lân nghe tiếng vọng nhìn trên không trung thấy mẹ vọng xuống cảm tạ nói:

-     Nhờ lực của con mẹ được sanh trời Đao Lợi rồi, bổng biến mất không thấy nữa.

Ngài Liên Trì ca tụng rằng:

Mục Liên cảm lời Phật cúng dường tăng

Tử Lân đi lễ tháp cảm lời thần

Lòng hiếu cảm thần minh há không tin?

Vì cứu mẹ lễ tháp mà lợi lành

Chí như người đầy tội lỗi phát sanh

Nhờ lễ tháp mà lại được tịnh thanh

Không còn gì hơn phước lợi lành

Lại màu sắc xá lợi tùy người

Tùy thời gian biến hóa không thể lường.

Như ta từng nghe thấy không thể nào thuật hết được. Do thấy oai thần và bi nguyện của Phật cả hai không thể nghĩ bàn, chỉ nên tin là thật không còn nghi nữa. Chí thành lễ hết lòng quyết định có cảm ứng.

1.4 Vía Phật Dược Sư

Ngày 13 tháng 9 âm lịch, vía Phật Dược Sư giáng sanh. Sáng sớm hôm đó, khóa lễ Kinh Lăng Nghiêm như thường lệ. Đọc tới bài tán: Thượng lai hiện tiền thanh tịnh chúng, phúng tụng Lăng Nghiêm… xong ngưng lại, Thầy Trụ Trì niệm hương, cắm nhang vào lư. Thầy Duy Na cử bài tán: Lư Hương, tiếp lạy thù ân và lạy 12 hiệu Phật Dược Sư…

Buổi sáng, đại chúng sau khi nghe hiệu lệnh, đắp y tập trung lên điện Dược Sư để cúng ngọ như nghi thông thường, tuy thay đổi Kinh tụng và hiệu Phật như:

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (3 lần)

Nam Mô Bạt già phạt đế, bệ sát xả lũ lô tích lưu ly, bát lặc bà hắc la xà dã, đát tha yết đa da. A ra hắc đế tam miệu tam bột đà da. Đát điệt tha, án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xả, tam một yết đế sá ha (49 lần đủ số, ít nhất tụng 12 biến).

Tụng xong, tiếp theo tụng: chú biến thực biến thủy…(21 lần); chú cam lồ, Phổ cúng dường mỗi câu 3 lần. Thầy Duy Na quỳ đọc văn sau:

Cung kính nghe rằng cõi Đông phương có Phật Dược Sư Như Lai công đức trí tuệ không lường. Ngài trang nghiêm phóng hào quang sáng hơn mặt trời mặt trăng đến hết thảy cõi giới sạch như lưu ly, cùng các cõi bốn phương sánh không có khác. 12 lời đại nguyện Ngài lợi lạc chúng sanh, phàm hễ có mong cầu đều tùy theo mà được mãn nguyện. Niệm danh Phật cùng Phật không khác đều đầy đủ 32 tướng đại trượng phu và 80 vẽ đẹp tùy hình. Tất cả những tai nạn ác thú nhờ oai thần Phật mà được thoát khỏi. Đệ tử chúng con nguyện đạt vô thượng Bồ Đề, đời đời kiếp kiếp tu Bồ Tát đạo; cũng như Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đã phát 12 đại nguyện lợi lạc hết thảy chúng sanh, liền làm cho cõi kham nhẫn này thân tâm các loài và quốc độ đều như lưu ly; mặt thấy đức Phật và Phật A Di Đà. Lại mong cho pháp giới chúng sanh đông tây gặp nhau nhị kiến mất hẳn ở trong trung đạo, cùng chứng pháp chân thường.

Đọc xong cử bài tán Phật Dược Sư:

Phật Dược Sư hiệu Lưu Ly Quang

Tám đại Bồ Tát giáng kiết tường

Bảy đức Phật rộng tuyên dương

Trời trăng sáng soi, công đức khó lường…

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (3 lần).

Chứng nghĩa, giải thẳng rằng: 2 tiếng Dược Sư - Dược: lấy thuốc trị bịnh làm công; Sư: lấy lời dạy đạo làm nghĩa là đại sư của pháp giới, bậc y vương không ai bằng. Vì chúng sanh có đủ loại bịnh khổ nên chư Phật có nhiều thuốc pháp, như bịnh 10 điều ác có thuốc thập thiện; bịnh 4 tâm điên đảo cóthuốc bốn niệm xứ; bịnh tham nhiều dùng thuốc quán bất tịnh trị; bịnh nhiều sân dùng thuốc quán từ bi trị; bịnh nhiều si dùng thuốc quán nhân duyên trị, bịnh nhiều tán loạn dùng thuốc quán hơi thở trị; bịnh nhiều chướng dùng thuốc quán niệm Phật; bịnh 6 tệ hại dùng thuốc 6 độ trị; cho đến 84,000 bịnh phiền não dùng thuốc 84,000 pháp môn trị v.v..

Lưu Ly Quang tiếng Phạn là Phệ Lưu Ly. Trung Hoa dịch là trời xanh ngọc. Thứ ngọc này sáng đẹp đem ví với thân Phật mà nói quang đó, do sạch đẹp nên trong sáng vậy. Nói Như Lai là một trong 10 hiệu của Phật. Dựa theo ứng thân, thừa đạo như thật, lại thành chánh giác nên gọi Như Lai vậy. Dựa theo báo thân, đệ nhứt nghĩa đế gọi Như; chánh giác là Lai. Dựa theo pháp thân: không từ chỗ nào tới, cũng không đi đâu, nên gọi Như Lai vậy.

Kinh bản ghi rằng, nếu có kẻ tin thanh tịnh nam hay nữ nghe được danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nghe rồi đọc tụng, cho chí cúng dường hình tượng v.v.. Nên biết chỉ do nhân duyên niệm Phật mà việc làm có cảm được Phật hộ niệm là có thể ứng ngay. Do cảm nên ứng, cảm ứng đạo gặp nhau, nên đạt chỗ sở cầu như nguyện thành tựu nhẫn đến thành Phật.

Tụng chú cảm ứng ý nghĩa cũng như trì danh niệm Phật.

1.5 Lễ vía Phật Di Đà

Ngày 17 tháng 11 âm lịch là lễ Phật A Di Đà đản sanh. Nghi tiết giống như vía Phật Dược Sư, chỉ thay đổi tụng Kinh Di Đà và lời bạch như sau:

Cung kính nghe rằng, năm hoa mai khâu kết viền cho đến thời Chu Chánh Kiến Tử…

Chính giác hoàng lập hội Di Đà Khánh Đản

Thiết nghĩ… tên Trụ Trì….

Ái buộc đất nước bẩn nhơ, nghiệp ràng thân huyễn

Được gặp thân thừa quán vòng hoa mà nung chí

Chuyên tu tịnh niệm hướng đất báu để gởi thần

Muốn báo đáp lòng thương bao la của mẹ

Không gì hơn hôm sớm tâm thành

Thiết lập đạo tràng kính tôn hiến cúng

Niệm hồng danh công đức

Tụng kinh điển nhứt thừa

Ngưỡng nguyện mắt xanh biếc rủ soi

Tay vàng phả ánh sáng trong rừng bảo thọ

Vọng nghe tiếng Phạm âm bàn thật tướng

Dây vàng trong cõi chiêm ngưỡng diệu tướng vãng sanh.

Lại nguyện:

Hồng ân thương xót chứng minh nạp thọ. Đứng nguyên và cử tán bài: Lạc Bang giáo chủ… Xong lạy 3 lạy rồi lui ra.

Chứng nghĩa ghi rằng: đức Phật A Di Đà là chỗ nương tựa vững chắc của chúng sanh cõi Ta Bà này như niệm danh hiệu Ngài, tụng các Kinh Tịnh Độ đều đã có nói rõ. Nhưng tổ chức lễ Thánh đản của Phật là chưa thấy phổ thông mà hầu như thiếukinh điển. Đức Phật Thích Ca xưng tán cõi Tịnh Độ chỉ cho ta trở về nhà mà Phật A Di Đà là chốn gia hương thân thuộc ta đó. Chúng ta yêu thương quốc độ đó, lao nhọc lâu tựa cửa ngóng trông, nay gặp ngày đản sanh của cha lành không thể tự ý mà có được. Cho nên vía Phật A Di Đà phải do đức Phật Thích Ca khởi xướng. Vã từ trước tới nay người niệm Phật bình thường gọi là chuyên tu, đến khi cầu thọ mạng (sống lâu) đổi tụng Kinh Dược Sư; muốn giải tội khiên tụng Kinh Lương Hoàng Sám, cứu nạn nguy cấp tụng chú Tiêu Tai, cầu trí tuệ niệm danh hiệu Quán Thế Âm.

Như có ý hướng niệm Phật A Di Đà nên đặt ở một chỗ cao mà không nghĩ là niệm Di Đà mới cảm được thọ mạng lâu dài, huống gì Ngài hiện thân sống lâu vô lượng ư? Niệm Phật A Di Đà có thể diệt được tội sanh tử trong 8 ngàn ức kiếp, huống gì tội chướng lâm nguy trước mắt ư? Kinh Di Đà ghi rằng: “Ta lấy trí huệ quang soi sáng vô số cõi, huống người đời xưng trí huệ ư?” Cho nên Phật A Di Đà như cây thuốc (lương dược) quí trong núi Tuyết Sơn, chữa trị được bá bịnh; không chỉ riêng cầu sanh về Tịnh Độ như chúng sanh mong mỏi.

Căn cứ theo báo Sơn Am tạp lục ghi: Đời Nguyên Triều niên hiệu Chí Chánh 15 vào mùa đông có Trương Sĩ Thành xâm nhập Hồ Châu vùng Giang Triết phòng ngự, thắng được loạn tặc hơn 40 người, ban đêm lưu lại chùa Ô Sào tại Tây Hồ. Lê Minh Thích trước ở chùa Thiên Ninh tại Nhiêu Châu, vị tăng bày mưu lớn. Hai dãy nhà hai bên có lối đi bộ, gả tù nhân thấy nhà sư lập mưu; tụng Kinh không dứt, nguyện cầu rằng:Thầy cứu con. Sư nói: “Ta cứu con không được. Nếu con hết lòng thành niệm Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn A Di Đà Phật mới cứu được con.” Trong đó có người thành tâm niệm Phật lớn tiếng ngày đêm không dứt mà quan tòa đã bỏ tù họ, trói lõng lẽo. Đến người thứ ba do thiếu đồ trói nên chỉ cột bằng dây. Đưa đến quan xử, quan tòa riêng vặn hỏi người thứ ba này. Người thứ nhất khai canh tác ruộng lúa mạch, bị bắt; người thứ nhì khai làm nghề thợ cưa ở Ninh Châu tới đây làm việc, bị bắt; người thứ ba bèn được miễn. Bèn đến chùa Ô Sào lễ tạ Thầy đã bày mưu kế rồi từ giả. Do quán xét việc này đến như tội tử hình, niệm Phật có thể khỏi, huống gì việc khác chứ? Cũng cần ghi thêm ở đây: để khuyên người niệm Phật không thành khẩn nên không như nguyện.

1.6 Vía Phật Di Lặc

Ngày mồng một tháng giêng âm lịch (ngày đầu năm) là lễ Phật Di Lặc đản sanh. Nghi thức giống như cúng Phật Dược Sư. Niệm hiệu:

Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật (3 lần).

Tiếp tụng Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật hoặc Kinh Hoa Nghiêm, phẩm nhập pháp giới; Chương Di Lặc, Thiện Tài đồng tử tán thán đức Di Lặc:

-     “Phật tử ở trong đây, hiện khắp trước chúng sanh, như vầng mặt trời, mặt trăng dứt trừ sanh tử u ám.

-     Phật tử ở trong đây thuận khắp tâm chúng sanh, biến hiện vô lượng thân trong khắp 10 phương.

-     Phật tử ở trong đây dạo qua các thế giới của hết thảy chư Phật trong vô lượng kiếp.

-     Phật tử ở trong đây nghĩ sâu về Phật pháp trong vô lượng vô số kiếp mà tâm không mệt mỏi chán nản.

-     Phật tử ở trong đây mỗi niệm nhập thiền định, mỗi một môn thiền định làm hiển sáng cảnh giới chư Phật.

-     Phật tử ở trong đây hẳn biết tất cả mọi cõi trong vô số kiếp, cũng biết danh hiệu Phật và chúng sanh.

-     Phật tử ở trong đây một niệm bao hàm mọi kiếp, chỉ tùy tâm chúng sanh mà không có tưởng phân biệt.

-     Phật tử ở trong đây tu tập các thiền định, trong mỗi một tâm niệm hiểu rõ các pháp trong 3 đời.

-     Phật tử ở trong đây thân ngồi kiết già bất động, hiện khắp ở các cõi trong tất cả mọi loài.

-     Phật tử ở trong đây uống biển Phật pháp, thâm nhập trí tuệ rộng sâu, đầy đủ công đức hải.

-     Phật tử ở trong đây ắt biết số cõi, số đời, số chúng sanh và số chư Phật cũng vậy.

-     Phật tử ở trong đây một niệm đều hiểu rõ tất cả 3 đời sự thành hình, biến hoại cõi nước.

-     Phật tử ở trong đây biết rõ hạnh nguyện chư Phật, chỗ tu hành của Bồ Tát, cũng như căn tánh dục của chúng sanh.

-     Phật tử ở trong đây thấy trong một hạt bụi có vô số đạo tràng, số chúng sanh và kiếp số.

-     Phật tử ở trong đây thấy hết thảy bụi cũng thế, chủng loại hàm đủ, nơi nơi đều không ngại.

-     Phật tử ở trong đây quán khắp hết các pháp, cõi chúng sanh và kiếp sống không khởi cũng không sở hữu. Quán sát các chúng sanh, các pháp, chư Phật, các cõi, các nguyện 3 đời thảy bình đẳng.

-     Phật tử ở trong đây giáo hóa các chúng sanh, cúng dường các đức Phật, suy niệm các pháp tánh trong vô số nghìn vạn kiếp, có hạnh tu nguyện lớn không đo lường, tán dương cũng không thể hết được.

-     Các việc đại dũng mãnh ấy đã hoàn tất không có chướng ngại, an trú trong đấy, Con chấp tay đảnh lễ. Là trưởng tử của chư Phật, Thánh hiệu Từ Thị, Con nay cung kính đảnh lễ, mong Phật dũ lòng thương xót nghĩ đến Con.”

Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật (108 biến). Tiếp tụng chú Biến Thực, Cam Lồ Thủy, Phổ cúng dường… như nghi cúng vía Phật Dược Sư.

Duy Na đọc lời bạch:

Cung kính nghe rằng: Di Lặc đại sĩ vào ngôi bổ xứ, hiện ở Cung trời Đâu Suất sẽ kế đức Thích Ca, sanh vào cõi Diêm Phù Đề, nhận di huấn của đức Năng Nhân (Phật Thích Ca); vì chúng sanh làm thầy dẫn đường, không có sự bức ngặt của 3 tai ách. Cõi Diệu Nghiêm an lành của năm phước[3] thấm nhuần mọi loài. Dưới cội Long Hoa ắt nghe âm giáo ba hội[4]; trước tòa bảo liên được thọ ký đời sau thành Phật. Nay gặp tiết đầu xuân nhằm ngày Khánh Đản, chúng con thành tâm thiết lễ phẩm cúng dường, tán dương tôn hiệu.

Lại nguyện: hiện tại gió lành che cõi nhân gian, tương lai giáng sanh vận truyền chánh pháp sâu rộng.

Đọc xong, cử tán:

Pháp thân hiển hiện, lầu các mở bày

Từ bi nở rộ hội Long Hoa.

Độ chúng sanh thoát khỏi trần ai

Cung kính lễ liên đài

Phật bổ xứ trong tương lai.

Nam Mô Đương Lai Di Lặc Tôn Phật (3 lần).

Tụng Bát Nhã, niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, tự quy y…

Chứng nghĩa ghi rằng: ở đây bài kệ trên trích Kinh Hoa Nghiêm quyển 79 có ghi: tiếng Phạn là Di Lặc, Trung Hoa dịch là Từ Thị. Kinh Bất Thực Nhục ghi rằng: vào đời quá khứ có một thế giới tên là Thắng Hoa Phu, ở đó có đức Phật hiệu là Di Lặc luôn đem lòng từ giáo hóa tất cả. Đức Phật đó thuyết Kinh Từ Tam Muội quang đại bi hải ghi rằng: lúc đó cõi kia có một vị tiên nhơn tên là Nhứt Thiết Trí Quang Minh, nghe Kinh này có công đức, nguyện trong đời vị lai thành Phật cũng hiệu là Di Lặc. Lúc ấy ông bỏ tục xuất gia vào tu trong núi sâu, sau đó gặp năm mất mùa không thể khất thực được. Bấy giờ trong rừng có 2 mẹ con con thỏ, thấy tiên nhơn 7 ngày không ăn, lấy làm lo cho huệ mạng Phật pháp đoạn tuyệt; nguyện xả thân mạng hiến cho tiên nhơn ăn, nên nhảy vào lửa. Lúc ấy thọ thần bảo tiên nhơn rằng: mẹ con thỏ chúa vì cúng dường mà nhảy vô lửa. Bây giờ thịt đã chín, ông có thể lấy ăn được rồi. Lúc vị tiên nghe thọ thầnnói thế, cảm động không thốt lên được, lấy lời Kinh viết để dưới lá cây, lại nói bài kệ rằng:

Thà tan thân mắt banh

Không nở giết ăn thịt chúng sanh

Chư Phật rành thuyết Kinh từ bi

Kinh ấy dạy mở lòng lành

Thà vỡ xương tủy, lòi óc não

Không nhẫn nhai nuốt thịt chúng sanh

Như Phật dạy kẻ ăn thịt

Người ấy không đủ làm hạnh lành

Hiện mang nhiều bịnh và chết yểu

Chìm trong sanh tử Phật chẳng thành.

Khi tiên nhơn nói kệ xong, liền phát lời thề rằng: nguyện con đời đời không khởi ý tưởng sát hại, luôn luôn chẳng ăn thịt cho đến khi thành Phật.

Phật chế giới đoạn ăn thịt có rõ lời này: Tự nhảy vô hầm lửa và căng thân mạng, sáng chiếu soi cả nước. Người ta thấy ánh sáng tìm đến, thấy tiên nhơn và 2 con thỏ chết trong lửa. Thấy vậy Phật nói bài kệ:

Tìm Kinh Phật đem về dâng vua

Vua truyền dạy mọi người đọc tụng

Khiến cho người nghe

Đều phát tâm vô thượng Bồ đề.

Phật nói kệ xong, bảo rằng: nay các người nên biết, bạch thố vương (thỏ chúa trắng) lúc bấy giờ, nay chính là thân Ta - Phật Thích Ca Mâu Ni; còn thỏ con ấy nay chính là La Hầu La; vị tiên nhơn trước kia nay chính là Di Lặc đó. Sau khi Ta nhập Niết Bàn, 56 vạn ức năm vị ấy được thành Phật v.v…

Lại Kinh Hoa Nghiêm, phần khuyến tu từ bi quyển 1, cũng Ngài Di Lặc hỏi pháp. Từ đó trở đi hiệu Ngài là Di Lặc tức là Từ Thị vậy. Dẫn rộng như trong Kinh tạng không thể nêu hết được. Thế thì Phật Thích Ca là giáo chủ hiện tại, còn Phật Di Lặc là giáo chủ tương lai, đều là chỗ nương tựa của chúng sanh. Ví phỏng sanh về cõi Cực Lạc gặp đức Phật Di Đà, rồi trở lại cõi Ta Bà nhưng phụng sự Phật Di Lặc, đâu có thể khác gì.

Hay hỏi:

-     Phật Di Lặc khi nào thành Phật?

Đáp:

-     Nói cách đại khái (ước chừng), thế giới qua 4 thời kỳ: thành, trụ, hoại, không. Mỗi thời kỳ là 20 kiếp. Như vậy kiếp trụ là tiểu kiếp thứ 9 trong 20 tiểu kiếp, từ một vạn 4000 năm trước, cứ 100 năm giảm 1 tuổi, giảm đến khi còn 20 vạn năm lúc đó đức Phật Ca Diếp ra đời. Sau khi Phật Ca Diếp tịch diệt lại 100 năm giảm 1 tuổi, giảm đến khi thọ mạng con người 100 tuổi, khi ấy thân con người cao 1 trượng, là lúc Phật Thích Ca ra đời. Phật Thích Ca sau khi diệt độ, thọ mạng con người giảm xuống còn 30 tuổi, Phật pháp diệt hết, chỉ còn Kinh A Di Đà phần nhiều lưu lại ở đời 100 năm. Đến khi thọ mạng con người còn 10 tuổi, thân cao hơn một mét, lúc đó kiếp đao binh khởi lên luôn gây sự chém giết nhau, con người tận diệt hết. Sau kiếp đao binh, người trong đời tuổi thọ dần tăng lên 100 tuổi; con người ham tu thiện, lúc đó có 16 vị đại A La Hán cùng với quyến thuộc lại xuất hiện trong cõi người hoằng dương Phật pháp. Như thế cho đến khi con người cõi này thọ 6 vạn tuổi, Phật pháp hưng thạnh đến 7 vạn năm. Giáo pháp Phật Thích Ca dạy hoàn toàn không còn nữa. Từ đây có 7 vạn vị Độc Giác cùng lúc xuất hiện, lúc đó thế giới này biến dơ thành sạch không còn gai gốc, suối khe gò nỗng bằng phẳng, cát vàng trải đất, khắp mọi nơi chỗ nào cũng có ao sạch, cây xanh, kỳ hoa dị thảo và đủ loại báu vật hợp thành. Thật là hình ảnh sáng đẹp đáng yêu thích. Con người đều có tâm từ quanh năm trở nên sung túc, đầy đủ như Kinh Di Lặc thành Phật có nói. Đến khi tuổi thọ con người tăng lên cực cao 84,000 tuổi, lại lần lượt giảm xuống 8 vạn tuổi. Lúc đó Phật Di Lặc giáng sanh cho đến khi thành Phật, vì chúng Thanh Văn thuyết pháp 3 hội, làm cho chúng ra khỏi sanh tử, đạt đến Niết Bàn. Hội thuyết pháp thứ nhất độ 96 ức chúng Thanh Văn, hội thứ nhì độ 94 ức chúng Thanh Văn, hội thứ ba độ 92 ức chúng Thanh Văn. Song số chúng được độ trong 3 hội đều trong 3 thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp của Phật Thích Ca; hết thảy hành giả đều giữ giới chân thật, tu hạnh bố thí, tạo phước v.v... Y cứ kinh tạng dẫn: có tất cả 6 tạng có Kinh Di Lặc: ngoại hữu Di Lặc tạng, Long Hoa tạng, Đâu Suất Qui Cảnh, các Kinh lưu hành. Ngoài ra, nước Tề niên hiệu Kiến Võ thứ tư vào ngày 8 tháng 5 năm Đinh Sửu, Di Lặc xuống trần tại Vụ Châu huyện Nghĩa Ô, họ Truyền tên Hấp, năm 16 tuổi cưới cô gái họ Lưu tên là Diệu Quang, sanh 2 ngưòi con trai là Phổ Kiến, Phổ Thành. Vào đời Vua Lương Võ Đế, họ hiển phép thần thông và ngộ thiền. Song Lâm truyện Đại Sĩ ngữ lục tu hành biệt hiệu là Thiện Huệ, mà đời sau mới biết đó là ứng hóa thân của Đức Di Lặc. Ngoài ra, vào thời Ngũ Quý tại huyện Phụng Hóa tỉnh Ninh Ba có Bố Đại Hòa Thượng không ai rõ gốc gác người vùng nào, tự xưng như thế; thường đeo túi vải chống gậy mà đi. Người đời gọi là con của Trường Đinh, thỉnh thoảng đem thiền cơ chỉ mọi người mà ít ai lãnh ngộ. Ngài tịch ngày 3 tháng 3 năm Trinh Minh tại Phụng Hóa, chùa Nhạc Lâm. Nay chốn ấy là sơn môn trong thiên hạ, đều thờ tượng là vị Phật Di Lặc này vậy.

1.7 Vía Chuẩn Đề

Ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch là vía đản sanh Phật Mẫu Chuẩn Đề. Nghi thức giống như lễ vía Dược Sư.

Trước tiên niệm:

Nam Mô Thất Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Án lãm xỉ lâm hồng (21 biến)

Án Ma Ni Bát Nạp Minh Hồng (108 biền)

Khể Thủ quy y Tô Tất Đế, đầu diện đảnh lễ thất cu chi; ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề; duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam mô Tát Đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, cu chi nẫm, đát điệt tha. Án chiết lệ, chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha (7 lần)

Án bộ lâm (108 biến).

Tụng chú biến thực, cam lồ thủy, phổ cúng dường; giống nghi cúng Phật Dược Sư.

Duy Na bạch:

Cung kính nghe rằng, Chuẩn Đề Phật mẫu là tổng lãnh của 25 bộ chúng (hữu tình) có thuyết thần chú, là chủng trí của chư Phật, Bồ Tát, không cố chọn nhiễm tịnh, luôn giữ niệm không phòng hộ; chẳng nệ thiếu đủ, lòng thành hẳn cảm ứng. Ba cõi đều lợi nhuần, muôn loài hàm an ổn. Nay nhằm ngày mồng 6 tháng này, cung nghinh vía Phật mẫu giáng sinh. Chúng con vân tập tăng chúng hiến cúng kinh chú, hương hoa, lễ phẩm.

Lại nguyện: 10 độ đều thu nhiếp, định huệ hiển bày ra, năm uẩn đều không, khổ ách dứt hết. Thần chú Diệu Trạm Tổng Trì gia bị cho chúng sanh đồng quy về bí tạng.

Duy Na bạch xong, cử tán Chuẩn Đề:

Lành thay Phật Mẫu đức hiệu Chuẩn Đề

Diễn nói ba mật Đà La Ni (thân, khẩu, ý)

Ứng nghiệm do tâm thành cầu nguyện

Công đức thật khó nghĩ suy

Tin sâu chắc hẳn không nghi.

Nam Mô Thất cu chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Tụng Bát Nhã, niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, tự quy y…

Chứng nghĩaghi rằng: Mật chú Chuẩn Đề bao hàm 25 bộ chúng. Mật bộ chia thành 5 bộ:

1) Phật bộ: ở giữa đức Phật Tỳ Lô Giá Na làm chủ, chú đa số do Phật thuyết

2) Kim Cang bộ: hướng Đông Phật A Súc là chủ, chú đa số do Bồ Tát Kim Cang thuyết

3) Bảo bộ: hướng Nam Phật Bảo Sanh là chủ, chú đa phần là chư thiên nói

4) Liên Hoa bộ: hướng Tây Phật A Di Đà là chủ, chú đa số do các vị Bồ Tát thuyết

5) Yết Ma bộ: hướng Bắc Phật Thành Tựu là chủ, chú phần nhiều do hóa nhơn và quỉ thần nói.

Trong 5 bộ này, mỗi bộ đều có đủ 5 bộ thành 25 bộ chúng. Án lam gọi là tịnh pháp giới; hoặc suy niệm hoặc đọc tụng có thể làm cho 3 nghiệp (thân, miệng, ý) được thanh tịnh. Bao nhiêu tội chướng thảy đều tiêu trừ, tùy theo nơi trú xứ đều được thanh tịnh. Y phục không sạch sẽ bèn trở nên sạch, thân thể không tắm gội, liền phải được tắm gội. Nếu được ngoại duyên đầy đủ, trước tắm rửa, kế mặc y phục sạch sẽ, rồi mới tưởng niệm chữ (án). Án sắc trắng sáng, tỏa chiếu như ánh trăng. Sáng soi tự thân tức là nội ngoại đều sạch hết mê hoặc. Xỉ lâm là hộ thân, tụng chú này hay trừ hết mọi bịnh khổ, tai chướng, ác mộng, tà mị, quỉ thần, cùng những việc chẳng lành.

Án ma ni bát nạp minh hồng tức là Án ma ni bát di hồng- gọi là chú lục tự (6 chữ); là bổn tâm vi diệu của Quan Âm, nên phải tụng cùng với chú Chuẩn Để, thật là vô cùng lợi ích. Ngài Chuẩn Đề, Phật Mẫu thấy chúng sanh ở cõi bẩn trược này khó giữ trai giới nên thuyết chú này. Chẳng kể bợm rượu, không luậndơ sạch mà chỉ chí tâm trì tụng có thể làm cho chúng sanh mạng ngắn ngủi tăng thêm tuổi thọ; hết thảy bịnh khổ đều được tiêu trừ. Phàm người cầu nguyện thảy đều mãn nguyện, nếu y pháp tụng đủ 100 vạn biến, sau khi mãn báo thân này được vãng sanhcõi Tịnh Độ, phụng sự chư Phật, được nghe diệu pháp, chứng đạo Bồ Đề. Người chưa trì chú Án bộ lâm như trì tụng sợ không có kết quả liền nên dùng chú này. Giống chân ngôn ở trên, ở một nơi trì tụng chắc chắn thành tựu. Tụng 108 lần xong là hồi hướng, chỉ nghi cúng vía bên trên đọc thêm chú biến thực, cam lồ thủy, phổ cúng dường, mỗi câu 3 lần.

Phần kệ hồi hướng:

Con nay trì tụng Đại Chuẩn Đề

Tức phát tâm đại nguyện Bồ Đề

Nguyện con sớm tròn sáng định huệ

Nguyện công đức tu tập thành tựu

Nguyện phước lực đầy đủ trang nghiêm

Nguyện cùng chúng sanh thành Phật đạo.

Bài này thích hợp giới xuất gia, nếu cầu cho người tại gia nên đổi lời như sau:

Cúng Phật tụng chú Chuẩn Đề

Con (tên) cầu (việc gì) cho con sớm được thành tựu v.v..

Phàm người tụng chú Chuẩn Đề, mỗi ngày 6 thời, ít nhất sáng, tối phải 2 thời. Nếu suốt đời trì tụng tùy nghi mà tụng không cần ghi số. Nên dùng kiếng Chuẩn Đề một mặt - trừ 2 thời sáng tối trì tụng vào mặt kiếng, lấy túi đựng kiếng để đeo nơi thân. Gia tâm trì tụng lâu ngày chắc chắn đạt được sự cảm ứng. Ngoài Kinh Chuẩn Đề trong các Tạng ra, còn có Hiển Mật viên thông thành Phật tâm yếu, Chuẩn Đề tịnh nghiệp tạp yếu v.v.. là những sách lưu hành.

1.8 Lễ vía Văn Thù

Ngày mồng 4 tháng Tư âm lịch là lễ vía Văn Thù đại sĩ đản sanh. Theo như nghi lễ vía Dược Sư. Nhưng niệm danh hiệu là:

Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát
 (3 lần).

Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật phẩm Nhập Pháp giới, chương quán Văn Thù ghi rằng: Lúc bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất đang hành đạo quán sát trong chúng Tỳ Kheo, bảo Hải Giác rằng:

“Này Hải Giác, ngươi nên quán sát Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, thân thanh tịnh, tướng tốt trang nghiêm, hết thảy người trời khó thể nghĩ lường. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi, tròn sáng thấu suốt làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi sáng rỡ trang nghiêm trừ hết mọi khổ não cho chúng sanh. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi với số hội chúng đông đảo đều là Bồ Tát mà trước đây đã gieo trồng căn lành. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi chỗ bước đi – bên phải bên trái – tám bước bằng phẳng trang nghiêm. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi ở nơi nào trong khắp 10 phương thường có đạo tràng theo đó mà chuyển hóa. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi trên lối đi có đủ vô lượng phước đức trang nghiêm; hai bên tả hữu có kho chứa đủ các loại trân quí, tự nhiên hiện ra. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi từng cúng dường Phật, căn lành lưu lộ nên hết thảy cây cối lên xinh tươi tốt ngay thẳng. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi, vua của các cõi mây mưa cung cấp đầy đủ, cung kính đảnh lễ để cúng dường. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi được 10 phương tất cả chư Phật Như Lai, lúc sắp nói pháp, ắt phóng tia sáng trắng giữa lông mày, chiếu tới thân từ đầu đi vào.

Đọc xong tiếp tụng chú Mạn Thù Thất Lợi BồTát tám chữ Đà La Ni: Án A mạt la hồng khước triết la (108 biến). Tụng thần chú xong, đọc biến thực chân ngôn, cam lồ thủy chân ngôn, phổ cúng dường chân ngôn. Xong, Duy Na bạch:

Cung kính nghe Đại sĩ vốn là thầy của 7 đức Phật nên xưng là đại trí. Xưa Ngài ở cao trên Ngũ Đảnh, hiệu là Thanh Lương, ánh sáng chiếu rõ chân thường đến nơi là nhà, sắc thân thanh tịnh. Do nhân đó mà liên tưởng tới đại nguyện của Mạn Thù đã duy trì như tam muội huyễn xoay chuyển, không vuông, không thể, chẳng sắc, chẳng không là để đốt hương đảnh lễ hàm dưỡng tuệ minh bát nhã. Ca tụng tán dương gieo giống Bồ Đề. Nay nhằm ngày thanh sáng mồng 4 là lễ giáng sanh của Đại Thánh, chư tăng tề tựu đầy đủ hiến lễ cúng dường.

Lại nguyện: nghiệp thức mịt mờ, phiền não ngút ngàn thăm thẳm, mong mỏi sạch tiêu.

Duy Na đọc xong, cử tán Văn Thù:

Ngài ở trên Ngũ đảnh (núi cao)

Thân cởi sư tử xanh;

Mây từ che khắp chốn,

Mưa pháp rải ban cho,

Khéo diễn pháp Đà La Ni,

Là thầy của 7 đức Phật,

Hóa độ mãi đến ngày nay.

Nam Mô Đại Trí Văn Thù Su Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát
( 3 lần).

Chứng nghĩa ghi rằng: tiếng Phạn là Văn Thù hay Mạn Thù Thất Lợi, Trung Hoa dịch là Diệu Đức, cũng gọi là Diệu Kiết Tường. Do vạn đức tròn sáng thấy rõ bổn nguyên (tánh chơn) nên gọi là Diệu Đức; xưng danh hiệu, niệm chú kẻ thấynghe đều lợi lạc nên gọi là Diệu Kiết Tường. Trước tụng Chương Quán Văn Thù, trích Kinh Hoa Nghiêm quyển 61, tiếp theo tụng chú trích Kinh chú gốc về Văn Thù Sư Lợi.

Phật bảo Bồ Tát Kim CangThủ rằng: Tám chữ chú Đà La Ni đại oai đức này thuộc về chư Phật quá khứ đã thuyết để ủng hộ hết thảy các quốc vương tu thập thiện làm cho họ được như ý; thọ mạng dài lâu, phước đức không lường, đao binh chấm dứt, quốc gia an ninh nên vô cùng lợi ích lớn lao cho hết thảy chúng sinh, dứt ba đường ác, các nguyện được thỏa mãn. Nếu người nghe nhớ niệm câu chú này liền diệt bốn tội trọng, năm tội nghịch, huống gì thường niệm, người ấy có phước đức sanh nơi thập địa được bổ xứ (thành Phật); có của sở hữu không bị cướp đoạt, huống gì là chư thiên. Như người trì chú, gặp việc bức bách hay ngăn chặn được ba nghiệp thân, khẩu, ý;10 điều ác dứt sạch, do trì tụng chú này mà được thành tựu, trừ tâm bất chánh, tâm không phát Bồ Đề tâm v.v...

Ngũ đảnhtức là Ngũ Đài hay gọi là núi Thanh Lương. Kinh Hoa Nghiêm, phẩm trú xứ Bồ Tát ghi rằng: hướng Đông Bắc có một nơi là núi Thanh Lương, từ xưa tới nay chư vị Bồ Tát ở đấy. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và quyến thuộc của Ngài, cùng chúng Bồ Tát là một vạn nguời tụ hội lại thường ở trong núi đó mà diễn nói pháp. Ngoài ra, Kinh Bảo Tạng Đà La Ni, Phật bảo vua Kim Cang Mật Tích rằng: sau khi Ta diệt độ ở Đông Bắc, Nam Thiệm Bộ Châu có nước tên là Đại Chấn Na mà ở đó có ngọn núi tên là Ngũ đảnh, Văn Thù đồng tử tu hành tại đó, vì chúng sanh mà thuyết pháp; và cũng có vô số trời, rồng, tám bộ chúng vây quanh cúng dường. Núi này ở Đại Châu thuộc huyện Ngũ Đài đúng như địa chí nói. Lại Văn Thù vì làm thầy của 7 đức Phật, như các Kinh Tâm Địa Quán v.v.. đều nói như thế.

Ngoài ra, Kinh Xử Thai ghi rằng: xưa vì làm thầy Phật Năng Nhơn, nay làm đệ tử Phật. Tôn trọng chẳng cùng giáo hóa nên ta làm Bồ Tát. Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Di Lặc, bảo Thiện Tài rằng: Văn Thù Sư Lợi đồng tử hạnh tu rộng lớn, nguyện lại vô cùng, phát sanh mọi công đức của Bồ Tát không hề ngưng nghỉ. Này thiện nam tử, Văn Thù Sư Lợi thường là mẹ của vô số chư Phật; luôn là thầy của vô lượng Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh đều thành tựu viên mãn v.v..

Trở lên đều y cứ sách nói, nếu dựa theo sự tích theo Kinh Văn Thù Bát Nê Hoàn ghi rằng:  Phật bảo Ngài Bạt Đà La: Văn Thù Sư Lợi, vì tâm đại từ bi mà sanh nơi cõi nước đông đúc xóm làng này, trong gia đình Bà La Môn đạo đức. Lúc Văn Thù sanh trong nhà sáng rực rỡ như hoa sen, Ngài ra đời từ hông phải của mẹ, thân ánh vàng tía; vừa lọt lòng mẹ đã nói được. Như Thiên đồng tử đem lọng báu che chở thân, hiện 10 tướng lạ kỳ. Có thể nói rằng vị Bồ Tát này trụ định Thủ Lăng Nghiêm tam muội (đại định) nên ở 10 phương hoặc hiện sơ sanh, hoặc hiện nhập diệt làm lợi lạc chúng sanh. Có bài kệ tán dương Văn Thù rằng:

Đại Bồ Tát Văn Thù

Không bỏ nguyện đại bi

Thân tự tại dị kỳ

Đội mão hoặc thân trần

Hoặc dắt theo hài nhi

Vui chơi nơi xóm làng

Hoặc hiện người nghèo khốn

Người già bịnh nhược suy

Hiện kẻ đói lâm nguy

Du phương mà xin ăn

Khiến người phát tâm thí

Mong sao mãn nguyện kỳ

Khiến phát tâm tin nghĩ

Ba la mật truyền đi

Thống lãnh vạn Bồ Tát

Nơi ngũ đảnh tu trì

Phóng vô số tia sáng

Người thấy tội tiêu phi…

Lại nói, sau khi Phật diệt độ 450 năm, Bồ Tát Văn Thù phải đến dãy Tuyết Sơn vì 500 tiên nhơn để thuyết pháp giáo hóa làm cho tất cả được chứng quả; rồi cùng chúng tiên bay lên không và đến nơi sanh địa, Ngài xuống ngồi thiền nơi cây Ni Câu nhập định Thủ Lăng Nghiêm, hiện các tướng lạ giống 500 tiên nhơn, mỗi người hiện thần thông và đều nhập Niết Bàn. Bồ Tát dùng đủ lực thần thông, thuyết đủ pháp môn quan trọng, nhiều hạnh lợi ích, vô số sự cảm ứng… như trong Kinh-Luật-Luận có ghi rõ, nên ở đây không thể nêu hết.

1.9 Vía Phổ Hiền

Ngày 21 tháng 2 âm lịch là vía Phổ Hiền đại sĩ đản sanh. Nghi thức giống như vía Phật Dược Sư.Trước hết niệm:

Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Tiếp theo tụng: Kinh Hoa Nghiêm Chương Quán Phổ Hiền Bồ Tát hạnh ghi rằng: có một vị Bồ Tát ngồi thiền định gọi là Phổ Hiền, thân màu bạch ngọc với 50 loại tia sáng, mỗi tia sáng có 50 màu hợp thành làn ánh sáng lớn. Các lỗ chân lông đều phát ra ánh sáng vàng; mỗi ánh sáng vàng nghiêm túc đó có vô số hóa Phật, các hóa Bồ Tát chọn làm quyến thuộc, bước đi thong thả nhẹ nhàng, tung hoa lớn như mưa rơi trước hành giả: các tượng hóa nhân miệng mở các răng. Các ao ngọc nữ, trống nhạc đờn ca âm thanh vi diệu tán dương đại thừa, là đạo chân thật. Hành giả thấy xong lòng vô cùng hoan hỷ lễ lạy, rồi lại đọc tụng Kinh thâm diệu, lễ khắp 10 phương Phật, cũng lễ tháp Phật Đa Bảo và lạy Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng lễ Ngài Phổ Hiền và chư vị đại Bồ Tát. Phát thệ nguyện rằng: nhơn phước đời trước nên con được gặp Phổ Hiền, mong tôn giả hiện điềm lành cho con thấy sắc thân.

Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát (108 biến).

Tiếp theo tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường như nghi cúng Phật Dược Sư. Thầy Duy Na bạch: Cung bạch Đại sĩ bèn được bổ thánh của hoa tạng, làm bến thanh lương của pháp giới trong vô số cõi nước đều trải qua đại hạnh; trong ngàn pháp môn vẫn giữ đại nguyện, cùng với Kinh Hoa Nghiêm mà làm trưởng tử. Lý sự viên dung làm thầy dẫn dắt ở cõi Cực Lạc; trí lực sâu rộng, nay là ngày 21 tháng 2 giữa mùa xuân gặp lễ Khánh đản đại sĩ, chúng con tăng chúng vân tập trước Phật đài, thiết lễ cúng dường. Lại nguyện: phổ môn đi vào lực Đại Thừa đem lại lợi lạc cho hết thảy mọi loài chúng sanh dứt sạch chướng nhiễm không còn thừa. Hết thảy diệu hạnh đều thành tựu.  Tiếp tán bài Phổ Hiền:

Hạnh nguyện Phổ Hiền, Phước đức vô biên

Trí huệ bực ấy, Danh hiệu Phổ Hiền

Thảy đều mãn viên, Muôn đức trang nghiêm

Lợi khắp nhơn thiên.

Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Chứng nghĩa ghi rằng: dựa theo hoa tạng mà luận, nơi hội Tỳ Lô bên trái là Phổ Hiền, bên phải là Văn Thù; xem trên hội Hoa Nghiêm, Phổ Hiền dụ như trưởng tử, Văn Thù như con trai út. Theo trí hạnh mà nói, Văn Thù tiêu biểu đại trí, Phổ Hiền tiêu biểu đại hạnh. Hạnh lấy trí dẫn đạo cho nên Văn Thù ở bên trái, Phổ Hiền ở bên phải. Nay cúng lễ trước thánh tượng đều nương trí hạnh làm chuẩn mực thì trước Văn Thù mà sau Phổ Hiền. Cho nên bốn danh sơn lớn của Trung Quốc, thứ nhất Ngũ Đài là chỗ cư trú của Văn Thù, thứ nhì Nga Mi là nơi cư trú của Phổ Hiền, thứ ba Phổ Đà là đạo tràng của Quán Âm, thứ tư Cửu Hoa là chỗ cư trú của Địa Tạng. Theo Kinh Bi Hoa, trong kiếp xa xưa Phật A Di Đà làm Vua Chuyển Luân, lúc đó là đệ nhứt thái tử tên là Bất Hủ; Thế Chí là thái tử thứ hai, tên là Ni Ma, Văn Thù là thái tử thứ ba tên là Vương Chúng, đến thái tử thứ 8 tên Mẫn Đồ mà nay là Phổ Hiền Bồ Tát vậy. Thế thì bổn và tích tương đồng, nhân và quả cùng loại; do đức tướng, thần thông, thuyết pháp, lợi ích, hạnh nguyện, lễ tụng, cảm ứng đều cùng khắp 3 đời. Bút mực chẳng có thể diễn tả đầy đủ hết được. Vào đời Đường tại núi Thiên Thai có Hàn Sơn, Thập Đắc 2 tăng nhân có nhiều thuật linh dị, mỗi vị có tập thơ truyền lại đời hàm ý như là hóa thân Ngài Văn Thù và Phổ Hiền mà cổ kim còn lưu truyền tích lạ này.

1.10     Lễ vía Quan Âm

Ngày 19 tháng 2 âm lịch là lễ đản sanh của đức Quan Âm. Nghi thức như vía Phật Dược Sư.Trước hết niệm:

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)

Tiếp tụng Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, phần bài kệ:

Thế Tôn tướng đẹp lạ

Con nay lại hỏi kia

Phật tử nhân duyên gì

Tên là Quán Thế Âm

Đầy đủ tướng đáng tôn

Phật đáp Vô Tận ý

Ông nghe hạnh Quan Âm

Khéo hiến mọi nơi chốn

Nguyện rộng sâu như biển

Nhiều kiếp khó nghĩ bàn

Hầu nhiều nghìn đức Phật

Phát đại nguyện thanh tịnh

Nay Ta vì ngươi nói

Nghe danh và thấy thân

Tâm niệm không bỏ qua

Hay diệt các khổ não

Như người sanh tâm hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Ra sức niệm Quan Âm

Hầm lửa biến thành ao

Hoặc trôi giạt biển cả

Các nạn quỉ, cá rồng

Do sức niệm Quan Âm

Sóng dồi chẳng chìm được

Hoặc tại núi Tu Di

Bị người xô rớt xuống

Do sức niệm Quan Âm

Như mặt trời treo không

Hoặc bị người dữ rượt

Rơi vào núi Kim Cang

Do sức niệm Quan Âm

Không tổn đến mảy lông

Hoặc gặp oán giặc vây

Cầm dao muốn làm hại

Do sức niệm Quan Âm

Liền khởi niệm từ tâm

Hoặc gặp khổ nạn vua

Hành hình muốn dứt mạng

Do sức niệm Quan Âm

Dao liền gãy từng đoạn

Bị giam cầm tù tội

Tay chân trói buộc chặt

Do sức niệm Quan Âm

Liền được mở trói hẳn

Bùa chú các thuốc độc

Muốn làm hại đến thân

Do sức niệm Quan Âm

trở lại nơi người hại

Hoặc gặp ác la sát

Rồng dữ các loài quỉ

Do sức niệm Quan Âm

Tức thì không dám hại

Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vút nhọn đáng sợ

Do sức niệm Quan Âm

Vội vàng bỏ chạy thẳng

Rắn độc và bò cạp

Khí độc phun khói lửa

Do sức niệm Quan Âm

Nghe tiếng tự bỏ đi.

Mây chớp nổi sấm sét

Tuôn xối giáng mưa đá

Do sức niệm Quan Âm

Tức thời liền tiêu tan.

Chúng sanh bị khổ ách

Vô vàn bức bách thân

Quan Âm sức trí diệu

hay cứu khổ thế gian

Đầy đủ lực thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Mười phương các cõi nước

Không cõi nào chẳng hiện.

Nhiều loại các ác thú

Địa ngục, quỉ, súc sanh

Sanh, già, bịnh, chết khổ

Dần dần khiến diệt sạch.

Chơn quán, quán thanh tịnh

Rộng lớn quán trí huệ

Từ quán và bi quán

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng

Sáng thanh tịnh không nhơ

Tuệ nhựt phá tối tăm

hay dẹp tai, gió lửa

Khắp soi sáng thế gian

Lòng bi răn như sấm

Ý từ diệu dường mây

Rưới mưa pháp cam lồ

Diệt sạch lửa phiền não

Cải kiện qua cửa quan

Trong quân trận sợ sệt

Do sức niệm Quan Âm

Cừu oán đều lui tan

Diệu Âm, Quan Thế Âm

Phạm Âm, Hải Triều Âm

Hơn hẳn âm thế gian

Vì thế nên thường niệm.

Niệm niệm chớ sanh nghi

Quan Âm bực tịnh thánh

Nơi khổ não nạn chết

Hay làm nơi nương tựa

Đầy đủ các công đức

Mắt lành thương chúng sanh

Biển phước đức khôn lường

Cho nên phải đảnh lễ.

Niệm danh hiệu Quan Âm 108 biến, như nghi thức thông thường. Tiếp theo Duy Na bạch:

Vì đang giữa tiết trung hòa

Trăng nước chiếu soi bóng tự tại

Giá chuông, hợp luật hoa đàm hiện tướng viên thông

Hiện bi nguyện trong 32 tướng nơi cõi ta bà

Chúng đệ tử thảy đều xưng tán

Phóng từ quang 10 vạn ức sáng

Thầy dẫn đường giúp đưa về Lạc Bang.

Mong cho… lặn hụp trong biển trần, mắc vòng phiền não, 6 căn ngang dọc, rong ruổi bôn ba tăm dạng. Ba tuệ vẫn mịt mờ chưa nhận ra chân tánh. Ví thử không nhờ đại bi của đấng cha lành cứu vớt những đứa con cùng khổ. Nay nhân ngày Khánh Đản, kính dâng hoa hương mong Ngài chứng tấm lòng thành của đệ tử chúng con, thương xót mà đón nhận.

Tiếp theo cử tán bài:

Tay cầm nhành dương

Đầu đội mảo Phật

Ngồi thiền nghiêm mật

Trên tòa hoa sen

Cứu khổ thương tình thật

Một niệm tâm thành

Độ hết thảy chúng sanh

Mở vô lượng cửa từ tâm.

Nam Mô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát (3 lần).

Hôm nay hoặc lễ sám hoặc niệm hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát hay luân phiên tụng Kinh Phổ Môn.

Chứng nghĩa ghi rằng: Quan Âm cứu khổ độ sanh, nên niệm danh hiệu được cảm ứng. Các Kinh như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm đều ghi rõ như vậy, nhiều kinh điển khác ghi chép cũng khó biết số bao nhiêu. Ở đây cô kết lại những việc cảm ứng nổi bật nhất trong tăng, lược ghi một số việc thấy rõ ràng còn dấu thiêng hay là loại giống như vậy.

Sơn am tạp lục ghi rằng: trước đây hòa thượng Cổ Đảnh ở Kính Sơn mới sanh ra dáng người tủn mủn, môi thẳng, răng lộ chân răng, tiếng tắt khô khan, thớ da nứt nẻ, có thể nói thịt lòi trơ ra. Vì 4 tướng xấu như vậy huống chi thân thể còn lùn xịt ư; lúc còn mạnh khỏe không nói người ta cũng biết. Thầy cầu đức Quan Âm ban ngày niệm hiệu Ngài không cần đếm, ban đêm lạy tượng Bồ Tát tới số nghìn, làm như thế trong 20 năm. Tướng xấu biến thành phước tướng, môi đẹp đỏ mà răng ẩn bên trong, tiếng nói trong trẻo mà da dẽ hồng hào. Sau gặp lại tướng công chúc mừng rằng: Thầy nay tướng tốt nên ngồi sỏng trên pháp tòa làm đại chấn tông phong mà năm ra đời làm hưng thạnh giáo pháp, nhẫn đến ở Kính Sơn 12 năm và thọ 79 tuổi. Tụng Kinh, lễ đức Quan Âm dễ thay đổi yểu thọ thành thọ mạng vậy. Ngoài ra, chùa Thọ Xương tại Ôn Châu có Tuyệt Chiếu Huy ngồi hạ yên lặng, nơi phòng ngủ treo Thánh tượng Quan Âm mỗi đêm lễ lạy. Một hôm bổng thấy bình nước sạch từ suối xuất hiện làm toàn thân ông vô cùng khoan khoái. Từ đó thêm niệm cung kính càng sâu, gương trí càng sáng; do tụng kinh lạy Phật mà cảm huệ vậy.

Lại một câu chuyện khác, có người tên Chiếu Liêu Nguyên ở chùa Thiên Đồng vốn mang nhiều chứng bịnh, năm Bính Thìn niên hiệu Hồng Võ, bịnh tình ông ngày càng nặng, thầy trụ trì khuyên ông niệm thánh hiệu Quan Âm. Mỗi ngày Chiếu niệm 10,000 hiệu tới năm sau vào ngày 17 tháng 10 lúc giờ ngọ ông tự nghĩ bịnh tình mình dẫn tới cái chết không xa; nếu không đổi lại niệm hiệu Phật A Di Đà việc niệm mới hăng hái hơn. Bổng nhiên thấy một người đàn bà tay cầm tịnh bình xuất hiện mà lại hiện ngay trước mặt, Chiếu thất kinh hồn vía lên mây. Sau định thần nghĩ kỹ lại, biết đó là Bồ Tát thị hiện, Chiếu khóc sướt mướt kể tội lỗi cầu xin sám hối. Chốc lát không còn thấy gì cả trải qua 5 ngày bịnh khổ tiêu hết. Đây do lễ bái mà trừ dứt bịnh như thế.

Sách Cao Tăng truyện ghi rằng: niên hiệu Nghĩa Hy năm đầu ở chùa Gia Tường huyện Sơn Âm có tăng Huệ Kiền tự biết sắp chết bèn phó thác nghỉ an dưỡng, tâm thành cầu đức Quan Âm dự thấy được tướng Thánh. Bịnh tuy chưa lành nhưng thần sắc như bình thường; người thị giả thường nghe hương lạ trong khoảnh khắc Thầy viên tịch. Tăng tục nghe vậy ai cũng rất đẹp lòng. Đây do lễ bái mà cảm ứng sanh về Tịnh Độ vậy.

Nói tóm lại, Quan Âm đại sĩ đối với chúng sanh chuyên niệm thật tin sâu, thật hành lâu ngày, thành khẩn tha thiết, hoặc tụng kinh hoặc lễ lạy đều đạt được sự cảm thông tới nguyện lực của Bồ Tát không thể nghĩ bàn.

1.11     Lễ vía Đại Thế Chí

Ngày 13 tháng 7 là lễ vía đản sanh của Bồ Tát Thế Chí. Nghi thức giống như vía Phật Dược Sư. Trước tiên niệm:

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Kế tụng:

Phật thuyết Kinh Quán Vô Lượng Thọ, chương Quán Thế Chí, kế quán Bồ Tát Đại Thế Chí. Vị Bồ Tát này thân hiện lớn nhỏ cũng như Quan Thế Âm, mặt tròn sáng mỗi mặt 125 do tuần chiếu sáng 250 do tuần, nhấc thân lên hào quang chiếu tới 10 phương các cõi hiện sắc vàng tía. Chúng sanh có duyên đều được thấy, chỉ trông thấy vị Bồ Tát này nội một lỗ chân lông phát ánh sáng là thấy hết ánh sáng thanh tịnh của 10 phương chư Phật. Vì thế danh hiệu của Bồ Tát này là Vô Biên Quang, lấy trí huệ quang chiếu khắp tất cả khiến lìa 3 đường ác được lực vô thượng. Do đó hiệu vị Bồ Tát này là Đại Thế Chí. Bồ Tát Đại Thế Chí đội mão Thiên quan có viền 500 hoa báu, mỗi hoa báu có 500 đài báu, trong mỗi đài là cõi nước thanh tịnh của 10 phương chư Phật. Thân tướng cao lớn đều ở trong cõi đó, hiện trên đảnh đầu có nhục kế nổi lên như hoa Bát Đầu Ma, ở trên nhục kế có một bình báu đầy cả ánh sáng hiện làm Phật sự. Ngoài ra, các hóa tướng khác như Quan Âm v.v... không có khác. Lúc Bồ Tát bước đi 10 phương các cõi đều chấn động; đang khi chấn động ấy hiện ra 500 ức hoa báu, mỗi hoa báu cao tốt trang nghiêm như cõi Cực Lạc. Khi Bồ Tát ngồi, cõi nước, 7 báu đồng loạt dao động, từ hạ phương cõi Phật Kim Quang đến phương trên cõi Phật Quang Minh Vương, ở khoảng trung gian có vô số phân thân. Phân thân Phật Vô Lượng Thọ, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thảy đều nhóm họp. Cõi nước Cực Lạc ở trên không, các vị ngồi tòa liên hoa diễn thuyết pháp mầu, độ chúng sanh khổ. Làm pháp quán này là quán sát thấy Bồ Tát Đại Thế Chí, tức là thấy sắc thân Đại Thế Chí. Quán tướng vị Bồ Tát này gọi là pháp quán thứ 11, trừ sạch được tội sanh tử trong vô số kiếp a tăng kỳ. Làm pháp quán này không ở bào thai mà thường du hành qua các Phật quốc thanh tịnh.Tiếp theo tụng:

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (108 biến).

Tụng xong, niệm chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường. Kế Duy Na quỳ bạch:

Cung kính nghe rằng: Thế Chí đại sĩ, vốn trước kia nhân duyên lấy tâm niệm Phật mà nhập cõi vô sanh. Nay ở cõi này người nhiếp tâm niệm Phật quy về Tịnh Độ. Đó là vì Chúc Thánh cõi Tây phương thường hiện pháp niệm Phật tam muội. Nhớ Phật niệm Phật, hiện tại, tương lai, ắt được thấy Phật, như người nhiễm mùi hương, thân thoảng hương thơm. Pháp thí dụ này thật là thấm thiết. Nay gặp ngày Thánh đản kính lễ cúng dường.

Lại nguyện: Đại sĩ thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con thường cầu mong gia bị; cũng như Đại sĩ tịnh niệm kế tục được đại định hết báo thân này được sanh về nước Cực Lạc. Bạch xong, cử tán:

Thế Chí Đại sĩ, bình báu lung linh

Thâu nhiếp niệm Phật thệ nguyện rộng thênh

Biển cả bao la, hầu cận Di Đà

Trừ mê cứu khổ thoát khỏi Ta Bà

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần).

Tụng Bát Nhã, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, tự quy y…

Chứng nghĩaghi rằng: 3 vị Thánh ở Tây phương là Phật Di Đà ở giữa, Quan Âm bên trái và Thế Chí bên phải. Hôm nay lễ vía dùng pháp quán của kinh mà quán Đại sĩ. Theo nghĩa viên thông mà hiển tỏ bổn nhơn, nguyện lớn rằng, Bồ Tát Đại Thế Chí trong vô số kiếp trước lấy niệm Phật nhập đại định; Ngài thường ở thế giới này đốc nhắc chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật hỏi Bồ Tát Viên Thông nơi chương tựa thứ nhất rất rõ ràng, đời nay đã xưng các Tổ liên tông là Viễn Công, huống chi hệ truyền thừa chư Tổ Trung Hoa mà Bồ Tát Đại Thế Chí là Tổ của pháp môn niệm Phật lâu đời. Trong chương đó có ghi rõ: pháp niệm Phật đã là tuyệt vời không pháp nào hơn, như mẹ con tưởng nhau thật là thuần khẩn khó nói. Tôi trước một lần thấy sanh tâm cảm động mà không tự biết, tiếp 3 lần đọc tụng niệm cảm càng sùi sụt, càng than thở ân đức Phật, chư Bồ Tát khó báo đáp. Từ đó trở về sau mỗi lần niệm Phật, trước tiên tôi tụng chương này một lần thành kính như là khóa tụng quen thuộc. Một lần đọc tụng là một lần phản tỉnh, có thể nói sự lợi ích không nhỏ vậy. Tôi đã tu pháp môn này mà được sự gia bị, mong các bậc thiện nhân cũng hành trì như thế. Mỗi lúc niệm Phật, trước nhất tụng chương này để niệm Phật đắc lực. Quả như đúng pháp tu hành ắt được tiếp dẫn vãng sanh. Nguyện rộng lớn nơi chương này tưởng rằng giải thích sơ lược thêm, thấy trong ngày giỗ Ngài Viễn Công lấy niệm Phật khởi đầu và niệm 10 niệm. Lúc ngủ nhập pháp quán văn, quán Kinh Chương 13, quán có kèm theo lời khuyên 4 điều:

1- Khuyên phát tâm niệm Phật

2- Khuyên thật tâm niệm Phật

3- Khuyên cầu sanh Tịnh Độ

4- Khuyên niệm, tụng tu cùng lúc.

Như thế hợp nhất gọi là niệm Phật thiết yếu, cho in ấn để lưu hành thật là cần thiết nên truyền đạt sâu rộng.

1.12     Vía Địa Tạng Thánh Đản

Ngày 30 tháng 7 âm lịch là vía Địa Tạng đản sanh. Sau thời Kinh Lăng Nghiêm sáng, tới phần đảnh lễ Phật, Trụ Trì niệm hương, cắm hương lên lư. Duy Na cử tán: Lư hương… Nghi thức giống như Phật Dược Sư. Niệm:

Nam Mô Đại Từ Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo tụng Kinh Địa Tạng bổn nguyện, bài kệ phẩm thấy nghe được lợi ích như sau:

Ta quán Địa Tạng lực oai thần

Vô số kiếp nói không cùng tận

Thấy nghe đảnh lễ trong một niệm

Lợi lạc trời người khó định phân

Hoặc nam hoặc nữ hoặc long thần

Hết báo thân phải đọa đường ác

Chí tâm quy y Đại sĩ thân

Tuổi thọ thêm tăng trừ tội chướng

Sớm mất mẹ cha, biệt người thân

Chưa rõ thần hồn nương chốn nào?

Anh em, chị em và thân nhân

Trưởng thành tới nay chưa nhận rõ

Hoặc vẽ hoặc họa Đại sĩ thân

Niệm lễ thiết tha không rời bỏ

Hăm mốt ngày niệm hiệu ân cần

Nhiều thân hình Bồ Tát hiện ra

Cho biết nơi nào quyến thuộc sanh

Giá rơi ác thú tìm cứu sạch

Nếu ai không lui sụt sơ tâm

Liền được sờ đầu truyền Thánh ký

Người muốn tu vô thượng Bồ Đề

Nhẫn đến 3 cõi khổ thoát ly

Chính là đã phát tâm đại bi

Trước nên quán lễ tượng Đại sĩ

Hết thảy các nguyện sớm đạt thành

Nghiệp chướng toàn dứt chẳng còn chi

Có người phát tâm tụng kinh điển

Muốn qua bờ giác độ quần sanh

Duy lập nguyện này khó ví sánh

Đọc rồi quên rồi phế bỏ nhanh

Người này bị nghiệp chướng trói buộc

Kinh điển Đại Thừa chẳng nhớ rành

Cúng dường Địa Tạng với hương hoa

Y phục, uống ăn, tọa cụ và

Nước trong trước Đại sĩ bày ra

Một ngày một đêm đem uống đó

Phát lòng tôn trọng cử cay nồng

Rượu thịt, tà dâm, vọng ngữ không

Trong 21 ngày chớ sát sanh

Hết lòng niệm tưởng Đại sĩ danh

Trong mơ thấy nhiều loại tướng hình

Tỉnh ra mới biết ấy điềm lành

Đúng lúc tai nghe dạy đọc Kinh

Chẳng quên trong ngàn vạn lần sanh

Do vì Đại sĩ khó nghĩ suy

Hay khiến người này đạt tuệ trí

Chúng sanh nghèo cùng và tật bệnh

Quyến thuộc chia ly, nhà cửa suy

Trong cơn mộng mị thấy bất an

Người cầu sai quấy không toại ý

Chí tâm niệm lễ tượng Địa Tạng

Mọi điều xấu ác đều tiêu tan

Thậm chí giấc mơ được bình an

Y, thực dồi dào quỉ thần can

Vào núi rừng, qua biển an toàn

Cầm thú độc và người hung ác

Ác thần, ác quỉ và gió độc

bao nhiêu khổ não hết thảy nạn

Chỉ nên lễ lạy và cúng dường

Bồ Tát Địa Tạng đại sĩ tượng

Như vào núi rừng, hoặc đại dương

Bấy giờ các ác đều tiêu sạch

Quan Âm lắng nghe Ta giảng tường

Địa Tạng sâu rộng khó nghĩ lường

Trăm nghìn vạn kiếp nói không cùng

Lực Đại sĩ đây rộng tuyên dương

Người nào nghe được danh Địa Tạng

Nhẫn đến chí tâm kính lễ thường

Dâng y phục, ẩm thực, hoa hương

Nhận trăm nghìn phước báu cúng dường

Hay chỉ nhân đây cầu pháp giới

thành Phật thoát sanh tử đại dương

Vì thế Quan Âm ngươi nên biết

Báo cho khắp hết các cõi tường.

Tiếp tụng:

Án Tam Đà ra già đà ta bà ha (108 lần). 

Duy Na bạch:

Lại vì gió vàng chuyển động, mở khai điềm tốt kim dung, sương ngọc thấm nhuần, hiển bày tướng đẹp ngọc hào. Đại sĩ đản sanh lung linh tuyệt đẹp. Trăng thu vừa tắt, ngước lên khắp bầu trời sáng tỏ, thánh đức trong sáng hồng ngọc. Nghĩ lại chúng con đang ở đời mạt pháp, tội lỗi chồng chất, mong thoát vòng khổ, ắt nhờ gió lành phủi quét được lên cõi an vui, toàn nương ánh từ để thong dong tự tại. Nay gặp lúc Hoa Đàm xuất hiện, kính dâng hương hoa phụng hiến. Đệ tử chúng con lại nguyện: gậy vàng hươi sáng, minh châu chiếu rạng; cuồng si u ám, mở ngục sắt không môn; nóng bứt trừ sạch; ngôi nhà lửa tiêu tan. Trời người đều lợi lạc, âm dương thảy nhờ ân.

Bạch xong, cử tán:

Đại sĩ Địa Tạng nguyện rộng sâu

Phá thành sắt bằng ngọc minh châu

Gậy vàng dộng u minh thông thấu

Đảnh lễ tôn tượng niệm xưng danh

Vô số cõi chan hòa tiết trời xuân

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần).

Chứng nghĩa ghi sự độ sanh của Ngài Địa Tạng theo các Kinh Bồ Tát Địa Tạng bổn nguyện, Địa Tạng thập luân Chiêm Sát thiện ác nghiệp báo v.v.. mà bản kinh sau thuyết minh đầy đủ. Nay nêu lên sự tích Ngài ở Đông độ như sách Thần Tăng truyện ghi: đức Phật diệt độ 1500 năm, Địa Tạng giáng sanh vào nước Tân La, nhà họ Kim tên là Kiều Giác vào năm Vĩnh Trưng thứ tư. Năm lên 24 tuổi cạo tóc dắt theo bạch khuyển khéo vânglời theo tàu buôn ra biển. Đến vùng núi Cửu Hoa, huyện Thanh Dương, phủ Trì Châu Đông, tỉnh Giang Nam, tọa thiền trên núi Cửu Tử sơn tuế nguyệt 75. Năm Khai Nguyên thứ 16, đêm 30 tháng 7 Ngài thành đạo năm 99 tuổi. Lúc bấy giờ có bậc kỳ lão, Mẫn Công rất thiện cảm nghĩ tưởng đến. Mỗi lần mời 100 vị tăng dự cúng trai tăng, hẳn còn thiếu một vị, nên mời vị tăng tu trong động cho đủ số. Vị này bèn xin một mãnh đất bằng áo cà sa, Mẫn Công ưng thuận. Y phủ giáp núi, Công hết sức lấy làm hoan hỷ. Người con trai Mẫn Công cầu xin xuất gia tức là Hòa Thượng Đạo Minh. Mẫn Công về sau cũng bỏ tục xuất gia, lại bái người con làm thầy, cho nên nay hầu bên tượng mà bên tráilà Đạo Minh, còn bên phải là Mẫn Công, đó là sự tích này vậy…

Bồ Tát nhập định 20 năm đến năm Chí Đức thứ 2 vào ngày 30 tháng 7 hiển thánh bước ra khỏi tháp, đến nay trở thành một đại đạo tràng. Hiện Quả Lục ghi rằng: chúng tôi là Vương Kiến một hôm không có bịnh bổng lìa đời. Có một người áo xanh dẫn đến minh phủ trình thưa khúm núm. Kết quả là bắt lầm Vương Kiến ở núi Đông. Do đó cho thả ra khỏi điện Minh phủ, thấy địa ngục Hắc Diệm ở giữa không, gào thét như sấm vang, có 3 lão tăng ngồi thiền bên cây sao dùng tịnh thủy rảy nước cho. Ngục tốt nghiến răng hét lớn: hãy dừng lại. Kế phía trước có viên tuần đi qua đó là Quan Âm, Phổ Hiền và Địa Tạng vậy. Y cứ theo tích đây có thể thấy trong Kinh Địa Tạng nêu rõ: niệm danh hiệu Địa Tạng, lễ tượng Địa Tạng được phước tiêu tội, thật không thể nghĩ bàn.

 

Hết quyển ba.


 


[1]Bốn tâm: tức là 4 tâm bao dung rộng lớn thương yêu khắp hết mọi loài chúng sanh. Đó là: tâm từ vô biên, tâm bi không giới hạn, tâm hỷ và tâm xả không cùng tận.

[2]Ba đức: có nhiều lối giải thích như Kinh Niết Bàn giải thích là: đức pháp thân, đức bát nhã và đức giải thoát. Theo khía cạnh tự lợi, lợi tha của Phật giải ba đức là: Trí đức: dứt sạch hết vô tri đủ vô thượng Bồ đề; Đoạn đức: đoạn sạch phiền não có thừa vô thượng Bồ đề; Ân đức: có thừa đức đại bi cứu giúp tất cả chúng sanh.

[3]Ngũ phước: 5 phước báu trên đời này là: giàu có, khỏe mạnh, sắc đẹp, sống thọ, chết được an lạc.

[4]Long Hoa tam hội: ba hội Long Hoa do đức Phật Di Lặc tương lai giáng sinh nơi cõi Ta Bà này, sau khi đắc đạo sẽ mở 3 pháp hội tại rừng cây thân rồng trổ hoa màu vàng, được mệnh danh là hội Long Hoa kỳ một, độ cho chúng sanh hạ căn hạ trí, hội thứ nhì độ hạng trung căn và hội thứ ba độ kẻ thượng căn thượng trí.

 

 

--- o0o ---

 

Quyển Bốn

Bách Trượng Hoài Hải biên soạn tại núi Bách Trượng vào đời Đường tại Hồng Châu.

Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, chùa Chân Tịch  tại Hàng Châu.

Trụ Trì chùa Giới Châu Diệu Vĩnh duyệt lại  tại Việt Thành vào đời Thanh.

 


Chương bốn: Ân Đức Tổ Sư

 

Lời thuật ghi rằng, mỗi người đều có Tổ cúng giỗ để ôn nhắc lại sanh bình của các Ngài. Hình hài lúc sanh tiền đáng yêu quí, song thể xác có lúc rồi cũng tiêu vong, yêu quí có lúc cũng hết. Chỉ có tánh linh hiển nhiên không mê mờ, chẳng do sanh mà tồn tại, chẳng do mất mà quên lờ. Cho nên Phật dạy người hiển tánh minh mà người sau học hỏi. Lại nữa, gắn chặt nơi lời nói không gọi được nơi quy hướng. Từ khi giáo pháp truyền sang Đông Độ, người được truyền thừa quả là ít ỏi và Tổ Đạt Ma đến, do pháp trực chỉ mà người ta mới thoạt thấy rõ. Luận về chỗ diệu của tự tánh từ đó trở đi truyền nhau không dứt. Tổ truyền đạo về sau thờ Tổ như lửa của củi, bình chứa của nước liên tục truyền thừa cho đến ngày nay có thể nói là thạnh vậy.

Song công ơn đức Tổ làm sao quên được chứ? Ngày lễ giỗ kỵ đâu thể bỏ bê ư? Đến như Tổ Bách Trượng Đại Trí thiền sư viết Thanh Quy làm mô phạm cho ta nay tòng lâm đuợc chấn chỉnh. Công đức ấy thật xứng đáng là Sơ Tổ truyền lưu không dứt. Cho nên pháp hội Ngài chủ tọa gọi là tòng lâm. Tổ đường nên thờ Tổ Đạt Ma bên trong, Tổ Bách Trượng kế bên tay trái mà là Tổ khai sơn của bổn tự. Nay đều xếp vào hàng trí giả cúng theo nghi chư tôn đức để giữ pháp gìn luật, báo ân đức người khởi xướng không làm sao quên được vậy.

1.1Giỗ Sơ Tổ Đạt Ma

Ngày mồng 5 tháng 10 là lễ giỗ Sơ Tổ Đạt Ma. Tự viện, tòng lâm viết thông báo đọc trên đài, đăng báo hay dán tại trai đường, phòng khách ở chùa. Thông cáo ở chùa viết như sau: ngày mai là lễ kỷ niệm Đạt Ma lão tổ thị tịch, tối nay và sáng mai sau khóa lễ, nghe hiệu lệnh, đại chúng vân tập Tổ đường đảnh lễ Tổ, trưa có cúng ngọ.

Chú ý: quét tước lau chùi long vị Tổ, tượng thờ, bàn thờ, thay nước cúng; sắm hoa quả tươi dâng cúng. Tối mồng 4, sau khi khóa lễ xong, Tri Khách thỉnh 3 hồi chuông, chúng tề tựu vào bàn Tổ, Trụ Trì niệm hương, xướng lễ:

Nam Mô Tây Thiên Đông Độ lịch đại tổ sư,

Nam Mô Đông Độ truyền giáo truyền giới chư vị Tổ sư,

Nam Mô Đông Độ truyền thừa thiền tông sơ tổ, Đạt Ma đại lão Tổ sư.

Sau đó, rót trà dâng cúng, đại chúng lễ 3 lạy, châm trà lạy 3 lạy; đọc chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường v.v... Châm trà lần thứ 3, đồng lạy 3 lạy rồi đại chúng lui ra.

Sáng mồng 5, sau thời Kinh Lăng Nghiêm xong, đại chúng đến trước bàn Tổ dâng hương đảnh lễ, dâng trà như hôm trước. Trụ Trì niệm hương:

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Duy Na cử niệm:

Nam Mô thiền tông tông chủ Bồ Đề Đạt Ma tôn giả
(3 lần).

Tiếp theo, tụng kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo, phẩm tâm ngữ của chư Phật: Chẳng sanh câu sanh khắp, thường câu vô thường câu, sanh tướng câu, vô sanh tướng câu; trụ khác câu, chẳng trụ khác câu; sát na câu, phi sát na câu. Tự tánh câu, lìa tự tánh câu; không câu, chẳng không câu. Đoạn câu, chẳng đoạn câu; biên câu, phi biên câu. Trung câu, phi trung câu; thường câu, phi thường câu. Duyên câu, phi duyên câu; nhân câu, phi nhân câu. Phiền não câu, phi phiền não câu; ái câu, phi ái câu. Phương tiện câu, phi phương tiện câu; xảo câu, phi xảo câu. Tịnh câu, phi tịnh câu; thành câu, phi thành câu. Thí câu, phi thí câu; đệ tử câu, phi đệ tử câu. Sư câu, phi sư câu; chủng tánh câu, phi chủng tánh câu. Ba thừa câu, phi ba thừa câu; sở hữu câu, vô sở hữu câu. Nguyện câu, phi nguyện câu; 3 luân câu, phi 3 luân câu. Tiêu tướng câu, phi tiêu tướng câu; hữu phẩm câu, phi hữu phẩm câu; cụ câu, phi cụ câu. Duyên do Thánh trí hiện pháp lạc câu, phi hiện pháp lạc câu. Quốc độ câu, phi quốc độ câu; a câu, phi a câu. Thủy câu, phi thủy câu; cung câu, phi cung câu. Thật câu, phi thật câu; số câu, phi số câu. Thần thông số câu, phi thần thông số câu. Minh câu, phi minh câu; hư không câu, phi hư không câu; mây câu, phi mây câu. Công xảo kỹ thuật xứ sáng câu, phi công xảo kỹ thuật xứ sáng câu. Gió câu, phi gió câu; đất câu, phi đất câu. Tâm câu, phi tâm câu; thi thiết câu, phi thi thiết câu. Tự tánh câu, phi tự tánh câu; âm câu, phi âm câu. Chúng sanh câu, phi chúng sanh câu; huệ câu, phi huệ câu. Niết Bàn câu, phi Niết Bàn câu. Lửa bỏng câu, phi lửa bỏng câu. Ngoại đạo câu, phi ngoại đạo câu; hoang loạn câu, phi hoang loạn câu. Huyễn câu, phi huyễn câu; mộng câu, phi mộng câu. Lửa hừng câu, phi lửa hừng câu. Voi câu, phi voi câu; xe câu, phi xe câu. Kiền thác bà câu, phi kiền thác bà câu. Thiên câu, phi thiên câu. Ăn uống câu, phi ăn uống câu. Dâm dục câu, phi dâm dục câu. Thấy câu, phi thấy câu; ba la mật câu, phi ba la mật câu. Giới câu, phi giới câu. Trời, trăng, sao câu, phi trời, trăng, sao câu. Chắc thật câu, phi chắc thật câu. Quả câu, phi quả câu. Khởi diệt câu, phi khởi diệt câu. Trị câu, phi trị câu. Xem tướng câu, chẳng xem tướng câu. Chi câu, phi chi câu. Xứ xảo minh câu, phi xứ xảo minh câu. Thiền câu, phi thiền câu. Mê câu, phi mê câu. Hiện câu, chẳng hiện câu; Ủng hộ câu, chẳng ủng hộ câu. Tộc (giòng họ) câu, phi tộc câu. Tiên câu, phi tiên câu. Vua câu, phi vua câu. Nhiếp thọ câu, chẳng nhiếp thọ câu; Báu câu, phi báu câu. Ghi câu, phi ghi câu. Nhứt xiển đề câu, phi nhứt xiển đề câu. Nữ nam chẳng phải nam câu, phi nữ nam chẳng phải nam câu. Mùi câu, chẳng phải mùi câu. Việc câu, chẳng phải việc câu; Thân câu, chẳng phải thân câu. Giác câu, chẳng phải giác câu.  Động câu, chẳng phải động câu. Căn câu, chẳng phải căn câu; Hữu vi câu, phi hữu vi câu. Vô vi câu, phi vô vi câu. Nhân quả câu, phi nhân quả câu; sắc cứu cánh câu, phi sắc cứu cánh câu. Đốt (lóng đốt) câu, chẳng phải đốt câu. Rừng cây dây leo câu, chẳng phải rừng cây dây leo câu. Tạp câu, chẳng phải tạp câu; Thuyết câu, phi thuyết câu. Tỳ ni câu, phi tỳ ni câu. Tỳ kheo câu, phi tỳ kheo câu. Xứ câu, phi xứ câu. Chữ câu, chẳng phải chữ câu.

Luận về huệ gồm 108 câu như thế, trước Phật đã nói; ngươi cùng chư đại Bồ Tát cần nên tu học.

Tiếp tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường. Thời tụng kinh này, Thầy Trụ Trì niệm hương, lạy 3 lạy, dâng trà, thức ăn. Cúng bàn phía đông rồi đến bàn phía tây, quanh tới bàn thờ Tổ dâng cúng. Cúng xong trở lại lễ 3 lạy, lại đốt thêm nhang, lạy 3 lạy. Đợi chư tăng tụng xong, mời một thầy thuyết pháp. Bài pháp xong, Duy Na quỳ gối chấp tay khấn bạch:

Cung bạch Sơ Tổ xưa ở Tây Thiên, bằng một chiếc thuyền nang tới khai hóa Đông Độ. Hân hạnh thay giáo pháp chánh truyền. Tiếp nối dòng dõi của giác hoàng, hốt nhiên vô thánh, phá trừ mê mờ của nghĩa học, trăm sông đổ ra biển hẳn khác dòng. Mặt trời hồng bám vào trời, rỗng rang không đo được bóng hình, chỉ vào tâm người mà thành Phật. Hợp diệu đạo phải quên lời đã làm cho đại chấn tông phong nên có công rất lớn khi giáo huấn. Hiện ra như hoa Đàm nơi đời xấu ác, thật là vị Tổ giữ pháp khí thần châu Đại Thừa đến tận hậu lai. Nay gặp ngày lễ nhập diệt, chúng con sắm chút lễ mọn, những mong tin lời di huấn của Phật Tổ, sức gánh vác nghìn cân. Một bông hoa nở ngoài mùa xuân phảng phất hương thơm vạn đợi. Cẩn bạch trải tấc lòng thành kính ngưỡng mong chứng giám.

Đọc xong, xá một xá rồi cử bài tán:

Đức Phật giơ cành hoa

Tổ Ca Diếp mỉm cười

Ý đạo tỏ ngộ rồi

28 Tổ kế thừa

Truyền chánh pháp Như Lai

Tổ Tổ mãi truyền lưu.

(Tinh túy những bài tán Phật, Bồ Tát, tập I, trang 38, Pháp Bảo ấn tống năm 2005 của T.B ảo Lạc dịch).

Chứng nghĩa: Sơ Tổ người nam Thiên Trúc, con thứ 3 của Vua Hương Chí, giòng Sát Đế Lợi, vốn tên là Bồ Đề Đa La. Sau khi gặp Tổ thứ 27, Bát Nhã Đa La tôn giả, biết sư có điểm gì bí mật, nhân đó thử cùng với 2 anh luận việc bố thí bảo châu. Tôn giả đã phát hiện được tâm yếu rằng: ngươi ở trong các pháp đã được thông suốt. Luận Đạt Ma có nghĩa là thông đại pháp nên Tổ đổi tên thành Đạt Ma. Nhân đổi tên là Bồ Đề Đạt Ma nên Trung Hoa dịch là Giác Pháp. Ngài thưa tôn giả:

-     Con đã đắc pháp nên đi đến xứ nào làm Phật sự; mong ân sư từ bi chỉ giáo ?

Tổ đáp:

-     Con tuy đắc pháp nhưng chưa thể đi xa được. Vả ở lại Nam Thiên (Ấn) đợi sau khi Ta tịch diệt 60, 70 năm nên qua nước Chấn Đán thiết lập đại pháp trực tiếp giúp kẻ thượng căn. Cẩn thận chớ đi xa về sau sẽ suy kiệt.

Đời Lương niên hiệu Phổ Thông năm thứ 8 nhằm năm Đinh Mùi (520), Ngài vượt Nam Hải đến Quảng Châu, thứ sử Tiêu Ngang dâng biểu cho Vua Võ Đế cho sứ nghinh tiếp. Ngày mồng 1 tháng 10 Ngài đến Kim Lăng cùng đàm đạo với nhà vua nhưng không hợp. Ngày mồng 9 tháng 10 Ngài qua đất Giang Bắc. Ngày 23 tháng 11 Ngài vào Lạc Dương lúc đó nhằm đời Ngụy Hiếu Minh niên hiệu Thái Hòa, năm thứ 10, dừng lại ở chùa Thiếu Lâm núi Cao Sơn và ngồi xoay mặt vào vách tọa thiền. Suốt ngày Ngài làm thinh, người đời khó hiểu nên gọi là bích quán Bà La Môn[1]. Lúc đó tại Chấn Đán kẻ có học chấp tướng phần nhiều kẹt vào danh tướng. Trong số người có học lại chú mục vào tôn chỉ, Tổ nêu tướng chỉ tâm không ai lãnh hội được. May gặp Thần Quang chặt cánh tay cầu an tâm, Ngài truyền y bát và dạy tụng Kinh Lăng Già lấy đó làm tâm ấn. Thái Hà năm thứ 19 ngày 5 tháng 10 năm Bính Thìn, Ngài ngồi kiết già ngay ngắn mà viên tịch. Cùng năm đó, lễ an táng Ngài tại núi Hùng Nhỉ vào ngày 28 tháng 12 và khởi sự việc xây tháp tại chùa Định Lâm. Về sau này vào đời Hậu Ngụy, Tống Vân đi sứ về gặp Tổ tại Thông Lãnh, vai quảy một chiếc giày hướng phía Tây mà đi. Tới Đường Ích Viên Giác đại sư đề tháp là Không quán, nay trên tháp còn ghi lời Kinh tụng Lăng Già 108 câu, là tâm yếu của thiền tông.

Tiếng Phạn Lăng Già, Trung Hoa dịch là không thể trở lại. Nghĩa rõ ràng là cảnh giới, thánh trí, thiền tông tự giác, lìa tâm vọng tưởng, ý thức, chẳng phải tà trí có thể đạt được. Tiếng Phạn A Bạt Đa La, Trung Hoa dịch là Vô Thượng, có nghĩa là biết rất rốt ráo, không còn gì trên nên gọi là bảo. Hết thảy chư Phật qua tâm ngữ mà chỉ có Phật với Phật hiểu nhau. Một là tất cả nên chỉ lấy một Kinh làm sáng tỏ. Hiểu rõ nghĩa của tâm, tức hiểu nghĩa trực chỉ của Đạt Ma, cũng hiểu ý nghĩa giơ cành hoa của đức Thế Tôn. Như nói: Niết Bàn diệu tâm là để phó chúc cho Tổ thứ 2 mà Kinh Lăng Già quyển 4 nêu làm tâm ấn. Nay lấy 108 câu dựa theo lời đức Thế Tôn đáp chung chỗ Ngài Đại Huệ đã hỏi. Trong mỗi câu đều có nửa câu trên, nêu hỏi tướng; nửa câu dưới tùy đó quét sạch mối nghi. Dựa tâm chân như quét sạch hết các tướng nên đều gọi là phi, là vô, là lìa. Nói chung ngoài cái tâm này, không pháp có thể thuyết, khiến người tin sâu để tu học như những câu Kinh tụng ở trên cũng giống ý ở đây vậy. Ngài Kính Sơn Diệu Hỷ nói rằng: hậu duệ của thiền, ban đầu do từ đức Thế Tôn giơ cành hoa tại hội Linh Sơn chỉ Ca Diếp mĩm cười. Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết Bàn diệu tâm, nay phó chúc cho ngươi”. Do đấy từ đời này sang đời kia truyền thọ nhưng đến đời Đạt Ma, Đạt Ma đến Trung Quốc chủ trương không lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, thấy tánh thành Phật, đó là thiền tông vậy. Cũng như nói: luận Thiền cùng giáo, Luật vốn là một thể. Ví như trăm sông nước đều quy về biển mà không khác vị (vị mặn). Nếu các nhà giáo - luật chỉ chấp văn tự, lời nói hẳn không đạt ý chỉ gốc-ngọn. Như thiền tông dù tọa thiền nhưng bỏ bồ đoàn chưa hẳn chứng ngộ, cũng là ngọn vậy. Căn cứ theo đó cho thấy thiền, giáo, luật khác tông nhưng đồng gốc chẳng phải hợp nhau chỗ chứng ngộ sao?

1.2Lễ Kỵ Tổ Bách Trượng

Ngày 29 tháng giêng âm lịch là lễ kỵ Tổ Bách Trượng. Nghi thức giống như cúng Tổ Đạt Ma. Trước hết cử tán:

Nam Mô Nam Nhạc nhị thế Bách Trượng Hoài Hải thiền sư giác linh thùy từ chứng giám (3 lần).

Tiếp theo tụng Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phạm Hạnh như:

“Lúc đó Thiên Tử Chánh Niệm, thưa Bồ Tát Pháp Huệ rằng: thưa Phật tử, hết thảy thế giới các chúng Bồ Tát y lời dạy của Phật, bỏ thói nhiễm xuất gia, làm sao đạt phạm hạnh thanh tịnh - từ địa vị Bồ Tát nhanh đạt đạo Bồ Đề?

Pháp Huệ Bồ Tát đáp:

-     Này Phật tử, đại Bồ Tát tu phạm hạnh phải lấy 10 pháp làm điểm tựa, ý nghĩa, quán sát gọi là nương nơi thân – thân nghiệp; nơi miệng - khẩu nghiệp; nơi ý – ý nghiệp. Phật, Pháp, Tăng, giới nên quán xét như thế lấy thân là phạm hạnh ư? Cho đến giới là phạm hạnh ư? Nếu thân là phạm hạnh nên biết phạm hạnh như thế là chẳng thiện, là vì chẳng phải pháp, là vì nhơ nhiễm, vì xấu ác, bất tịnh, đáng che dấu, vì trái nghịch, vì tạp nhiễm, là như thây chết, là vì vi trùng nhóm. Nếu thân nghiệp là phạm hạnh, thế thì phạm hạnh là đi - đứng - nằm - ngồi; ngó trông 2 bên; co - duỗi – cúi - ngước. Nếu khẩu là phạm hạnh thì phạm hạnh ấy là tiếng nói, hơi thở, môi, lưỡi, cổ họng, súc, nhổ, đưa vào, vặn ép, ngang, cao, thấp, trong, đục. Nếu ngữ nghiệp là phạm hạnh thì phạm hạnh ấy là đứng dậy, hỏi han, nói hẹp, nói rộng, nói thí dụ, nói thẳng, khen, chê, nói an lập, nói theo tục, nói rõ ràng… Nếu ý là phạm hạnh thì phạm hạnh phải là giác, là quán, là phân biệt, nhiều loại phân biệt, là niệm nhớ, đủ thứ nghĩ ngợi, suy tư, đủ thứ suy tư, là hư ảo, là mơ ngủ… Nếu ý nghiệp là phạm hạnh nên biết phạm hạnh ấy là tư tưởng lạnh, nóng, đói, khát, khổ, vui, lo, mừng…

-     Nếu Phật là phạm hạnh, thế Sắc là Phật ư? Thọ là Phật? Tưởng là Phật? Hành là Phật? Thức là Phật ư? Tướng là Phật sao? Tốt là Phật ư? Thần thông là Phật? Nghiệp hành là Phật ư? Quả báo là Phật ư? Nếu Pháp là phạm hạnh, như thế tịch diệt là pháp ? Niết Bàn là pháp ? Bất sanh là pháp ư? Bất khởi là pháp? Bất khả thuyết là pháp? Vô phân biệt là pháp ? Không chỗ hành là pháp ? Không nhóm họp là pháp sao? Không tùy thuận là pháp ư? Không chỗ đắc là pháp ư? Nếu Tăng là phạm hạnh thời lấy quả dự lưu hướng là Tăng? Dự lưu quả là Tăng? Nhứt lai hướng là Tăng? Nhứt lai quả là Tăng? Bất hoàn hướng là Tăng ư? Bất hoàn quả là Tăng sao? A La Hán hướng là Tăng ? A La Hán quả là Tăng ư? Ba món minh[2]là Tăng? Sáu phép thông[3]là Tăng ư? Nếu giới là phạm hạnh như vậy lấy đàn tràng làm giới ư? Vấn thanh tịnh là giới ? Dạy oai nghi là giới sao? Hỏi ba lần bạch yết ma[4]là giới ư? Hòa Thượng là giới sao? A Xà Lê[5]là giới sao? Cạo tóc là giới ư? Mặc đắp y ca sa là giới? Khất thực là giới? Sống nghề chân chánh là giới ư? Đã quán xét như thế không chấp thủ thân, không chỗ vướng buộc tu, không trụ nơi pháp. Quá khứ đã qua, vị lai chưa đến, hiện tại vắng lặng, không có người tạo nghiệp, không kẻ thọ báo. Đời này không di động, biến đổi, trong đó pháp nào là phạm hạnh? Phạm hạnh từ đâu đến? Ai là kẻ sở hữu? Thể nó là gì? Do ai tạo thành mà có? Đó là không, là sắc, là phi sắc, là thọ, phi thọ, là tưởng, phi tưởng, là hành, phi hành, là thức, phi thức. Quán xét như thế cho thấy rằng phạm hạnh không thể đạt được. Các pháp 3 thời đều vắng lặng nên ý không chấp bám, tâm không chướng ngại, việc làm không hai nên phương tiện tự tại. Thọ vô tướng nên quán pháp không tướng để biết Phật pháp bình đẳng. Vì hết thảy đều là Phật Pháp và như thế gọi là phạm hạnh thanh tịnh.”

Tiếp theo tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường như nghi cúng kỵ Tổ Đạt Ma. Chỉ thay đổi lời bạch:

Cung kính nghe rằng một lời vì thiên hạ ban pháp trong đó có qui củ phép tắc thì muôn đời biết tôn sư trọng đạo, có kỷ có cương (mối giềng) lấy lễ nhạc tòng lâm làm thạnh; pháp tánh làm phát long tượng; thiền giáo cùng đeo đuổi sự phong phú, vẹt đá tảng hưởng lộc trời. Kinh luật đều nhuần nhuyễn như nén vàng thoi ngọc; đáng nên bồi đắp tổ thiền lấy tế tự nên tuân ngày húy nhựt mà cúng kiến. Lại nguyện: Không bỏ tục đế cảm được thân thanh tịnh, tiếp nối khêu đèn trí soi sáng đêm tăm tối.

Bạch xong, xá 1 xá; Duy Na cử tán, đại chúng hòa theo:

Bực thầy thiên hạ, truyền bá chánh tông

Tuy tu diệu hạnh trụ pháp chân không

Thiền, luật làu thông

Muôn đời làm chấn song

Bách Trượng tông phong.

Nam Mô Nam Nhạc nhị thế Bách Trượng Hoài Hải Tồ Sư (tam bái).

Ngoài ra, theo như nghi thức cúng Tổ Đạt Ma. Chứng nghĩa ghi rằng: nơi bàn thờ Tồ, chính giữa thờ Tổ Đạt Ma, bên trái Tổ Bách Trượng, bên phải Tổ Khai Sơn. Tuy do tăng già qui định, nhưng chỉ có thiền tông theo đúng như vậy. Trong khi Luật tông, chính giữa thờ Tổ Đàm Vô Đức, bên trái Tổ Đạo Tuyên, bên phải Tổ Khai Sơn. Tông Sám Ma, ở giữa thờ Ngài Chí Công, bên trái Ngài Ngộ Đạt, bên phải Tổ Khai Sơn. Tông Thiên Thai, chính giữa thờ Tổ Long Thọ, bên trái Tổ Trí Giả, bên phải Tổ Khai Sơn. Tông Hiền Thủ, chính giữa thờ Ngài Đỗ Thuận, bên trái Ngài Hiền Thủ, bên phải Tổ Khai Sơn. TôngTừ Ân, chính giữa thờ Ngài Huyền Trang, bên trái Ngài Khuy Cơ, bên phải Tổ Khai Sơn. Tông Pháp Tánh, ở giữa thờ Ngài Tăng Triệu, bên trái Ngài Đạo An, bên phải Tổ Khai Sơn. Mật tông chính giữa thờ Ngài Kim Cang Trí, bên trái thờ Ngài Đại Quảng Trí, bên phải thờ Tổ Khai Sơn. Tông Phiên Dịch chính giữa thờ Ngài Ca Diếp Ma Đằng, bên trái Ngài Trúc Pháp Lan, bên phải thờ Tổ Khai Sơn. Tông Tịnh Độ chính giữa thờ Tổ Huệ Viễn, bên trái thờ Tổ Ưu Đàm, bên phải thờ Tổ Khai Sơn.

Cách thờ tự như thế mới làm nổi bật các nhà lập phái, 10 hệ phái không hơn mà các ngày cúng giỗ có ghi đầy đủ trong các sách như Cao Tăng truyện v.v.. Người nào muốn hiểu rộng nên tự tìm tòi, mong mỏi thay! Thờ Tổ từ lâu nay đã lâu mất dần tôn chỉ, nội việc cúng cũng không biết Tổ nào? Cúng ngày nào? Vong bản đến thế, Phật Pháp làm sao hưng long chứ? Tổ Bách Trượng thực hành đã nói rõ nguyên nghĩa ở trước, nên ở đây không lặp lại nữa. Nay chỉ nói tụng kinh phẩm Phạm Hạnh, điều Thanh Quy Chương 9. Thực hành tuy không giống nhau, nhưng chung vẫn là giữ giới, ngăn lỗi là hình thức các tông giống nhau. Lấy vô sở đắc quán tự tánh; quán lý nếu sáng tỏ; phạm hạnh tự tịnh. Tâm thuần là pháp cùng với pháp ứng hợp nhau; đó là không bị trần cảnh làm chướng ngại. Sự và lý tu song hành, chân và tục không hai thì một phẩm Phạm Hạnh đây thật là hữu ích trợ duyên tu thiền cũng như trợ lực Thanh Quy vậy. Không phải chỉ dâng cúng tụng kinh mà có khi cũng còn cần nên tham cứu lời Tổ dạy nữa.

1.3Lễ Kỵ Trí Giả Đại Sư

Ngày 24 tháng 11 là lễ giỗ Tổ Thiên Thai Trí Giả đại sư. Nghi thức giống như cúng Tổ Đạt Ma. Trước hết niệm:

Nam Mô Thiên Thai Tông Chủ Trí Giả đại sư (3 lần).

Tụng Kinh Pháp Hoa, kệ Như Lai Thọ Lượng:

Từ khi Tôi thành Phật

Trải qua vô số kiếp

Vô lượng trăm nghìn vạn

Ức a tăng kỳ kiếp

Thường thuyết pháp giáo hóa

Độ vô số chúng sanh

Khiến nhập vào Phật đạo

Đến nay vô lượng kiếp

Vì độ thoát chúng sanh

Phương tiện nhập Niết Bàn

Mà thật không diệt độ

Trụ cõi này thuyết pháp

Ta thường trụ ở đây

Dùng đủ lực thần thông

Khiến chúng sanh điên đảo

Dù gần mà chẳng thấy

Nếu thấy Ta nhập diệt

Rộng cúng dường xá lợi

Thêm đem lòng kính mộ

Mà sanh tâm khát ngưỡng

Chúng sanh đã tín phục

Chân thật ý nhu hòa

Nhất tâm muốn thấy Phật

Không tự mến tiếc thân

Lúc ấy Ta cùng Tăng

Ra khỏi núi Linh Sơn

Ta hay bảo mọi người

Thường ở đây bất diệt

Vì dùng sức phương tiện

Hiện có diệt không diệt

Các cõi có chúng sanh

Kẻ ưa kính tín thành

Ta lại tới nơi đó

Thuyết pháp độ thoát họ

Các ngươi không nghe rõ

Nên nghĩ Ta diệt độ

Ta thấy các chúng sanh

Chìm ngụp trong khổ não

Vì thế chẳng hiện thân

Họ sanh lòng khát ngưỡng

Do có tâm mến tưởng

Mới nói pháp thật tướng

Lực thần thông như thế

Trải qua vô số kiếp

Thường tại núi Linh Thứu

Và tại những nơi khác

Chúng sanh thấy kiếp hết

 Lúc hỏa tai thiêu sạch

Cõi này Ta an lạc

Trời người thường hân hoan

Vườn rừng cùng lầu các

Bằng vật báu trang nghiêm

Cây báu sai hoa quả

Chúng vui chơi sẵn sàng

Chư thiên đánh trống trời

Những kỹ nhạc thường trổi

Rải hoa Mạn Đà La

Cúng Phật cùng đại chúng

Tịnh Độ Ta chẳng diệt

Nhưng chúng thấy thiêu sạch

Luôn khổ não sợ sệt

Đầy dẫy việc như trên

Do ác nghiệp nhân duyên

Tội báo chúng gây nên

Qua vô số kiếp liền

Không nghe tên Tam Bảo

công đức những ai tạo

Tâm nhu hòa chánh trực

Đều được thấy thân Ta

Đang hiện thân thuyết pháp

Hoặc có lúc vì chúng

Nói Phật thọ vô lượng

Kẻ lâu không thấy Phật

Bèn cho Phật khó gặp

Trí lực Phật như thế

Tuệ quang chiếu khắp cùng

Thọ mạng không thể lường

Nhân tu lâu chứng được

Kẻ trí các người thường

Chớ sanh tâm nghi tưởng

Phải dứt nghi vĩnh viễn

Lời Phật thật không dối

Như lương y phương tiện

Chữa trị đứa con hoang

Cha sống mà nói chết

Lời này chẳng dối gian

Ta cũng như người cha

Cứu thoát bao khổ nạn

Vì phàm phu điên đảo

Ta còn, nói thác oan

Những ai thường thấy Phật

Mà sanh lòng kiêu căng

Buông lung theo ngũ dục

Rơi vào đường xấu ác

Ta cũng biết các hạng

Tu tập, kẻ chẳng tu

Tùy đó mà độ họ

Nói pháp hợp căn cơ

Mỗi loài tự nghĩ suy

Tự biết phải làm gì

Đạt được vô thượng trí

Mau thành Phật uy nghi.

Tiếp theo tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường v. v… như nghi thức cúng Tổ Đạt Ma, tuy chỉ thay đổi lời bạch như sau:

Cung kính nghe rằng, đức Như Lai một đời giáo hóa, đời sau nhắc lại các triết thuyết đã tuyên dương. Chúng sanh 6 thức mê lầm, ngưỡng trông bậc đạo sư giác ngộ. Vì vậy, Ngài hóa hiện nơi cõi người, giáng sanh chỗ phức tạp, phồn hoa. Thánh đức đủ đầy, mộng thấy khói hương 5 sắc; thần kỳ hiện tướng; phẩm cách phi thường. Tụng Pháp Hoa mà vào định, thấy Linh Thứu hiển bày, cảm kích Kim Lăng, thoát áo quan mà thuyết pháp; thân cao chót vót ở chóp đài nơi đất vàng để chuyển pháp luân. Từ đây giáo pháp truyền thừa muôn đời không dứt, còn lại sắc thân thị tịch, 5 uẩn tạm nương. Nay nhân lễ húy nhật, sắm sửa lễ phẩm cúng dường, ngưỡng mong chiếu giám, làm điểm sáng cho người sau.

Tiếp theo đại chúng cùng tán:

Linh Sơn phó chúc,

Kim khẩu truyền thừa,

Như Lai giao trọng nhiệm đảm đương,

Ba quán tỏ tường soi chiếu,

Tổ Tổ kế lưu truyền,

Đèn pháp mãi sáng vô biên.

Nam Mô Thiên Thai tông chủ Trí Giả đại sư (3 lạy).

Chứng nghĩa ghi rằng: Tông chủ Thiên Thai là Ngài Trí nghiễm, tự là Đức An, họ Trần nguyên quán tại Dĩnh Xuyên. Cha làm lương tán kỵ từ Dương Công Trần, mẹ họ Từ. Sự tích cuộcđời Ngài xem Tục Cao Tăng truyện, quyển 21 và sách riêng có đăng tải. Ngài tịch ngày 24 tháng 11 năm Khai Hoàng 17 đời Tùy, hưởng thọ 67 tuổi. Căn cứ theo việc tụng Kinh Pháp Hoa của Ngài phẩm Dược Vương đến câu:

Là chân thật tinh tấn

Gọi là chân pháp cúng

Cúng dường đức Như Lai.

Hốt nhiên đại ngộ chứng được Pháp Hoa tam muội, tinh hoa của Kinh Pháp Hoa, bình luận một đời Phật giáo hóa và dẫn phẩm Tín Giải để phân định 5 thời thuyết giáo. Quan trọng ở chỗ Như Lai phóng một đạo hào quang trắng ánh sáng thấu đến 10 pháp giới, 6 độ vạn hạnh, cho nên nói tri kiến Phật sớm đã quay lượn bay đi. Do trong chúng không ngộ nên Xá Lợi Phất 3 lần thỉnh Phật thuyết pháp. Phật vì khai quyền hiển thật mà khai khẩu nói pháp do một đại sự nhân duyên duy nhất Ngài xuất hiện ra đời. Đó là không ngoài khai thị chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật, đến phẩm Như Lai thọ lượng này nói đến tột cùng nguồn chơn, vì mọi người mà phá nốt. Song Phật, hiện Niết Bàn mà Ngài Trí Giả cũng hiện diệt độ. Nay là ngày lễ kỷ niệm Ngài, đại chúng tụng phẩm Kinh này chính để cho thấy rõ không phải chỉ vì Phật, Tổ mà không nhập Niết Bàn. Vậy nên phàm phu chúng ta đã từng ở trong sanh tử lâu dài. Người bị khổ luân hồi trong sanh tử bèn vọng tưởng là do nhân duyên. Nếu lìa vọng tưởng vốn hiện 3 thân, bốn trí, Niết Bàn - sanh tử sánh như không hoa, do tụng phẩm Kinh này mà được mở bày ngộ tri kiến Phật.

1.4Lễ Kỵ Ngài Pháp Sư Hiền Thủ

Ngày 14 tháng 11 lễ kỵ Tông chủ Hiền Thủ, là Quốc Nhất, là tạng Tổ kỵ. Nghi thức giống như cúng Tổ Đạt Ma: Nam Mô Hiền Thủ Tông Chủ quốc nhất pháp sư (3 lần). Tiếp theo tụng Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai xuất hiện ra đời:

Này Phật tử, Đại Bồ Tát phải làm sao để biết Như Lai Chánh Đẳng giác nhập Niết Bàn? Này Phật tử, đại Bồ Tát muốn biết Như Lai nhập đại niết bàn cần phải biết rõ tự tánh căn bổn chân thật NHƯ là Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như thật tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như pháp giới Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như hư không Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như pháp tánh Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như ly dục Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như vô tướng tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như ngã tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như hết thảy pháp tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như chân như tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Tại sao? Vì Niết Bàn không sanh không xuất. Nếu pháp không sanh, không xuất thì không có diệt.

Này Phật tử, Như Lai không vì Bồ Tát mà nói Niết Bàn rốt ráo của Như Lai cũng không vì sự thị hiện kia mà nói Niết Bàn. Tại sao? Vì muốn làm chúng sanh thấy tất cả thường trụ của Như Lai về trước, trong một niệm thấy chư Phật quá khứ, vị lai sắc tướng tròn đầy như hiện tại; cũng không khởi hai chẳng nhị tưởng. Tại sao? Vì đại Bồ Tát xa lìa hết thảy mọi chấp tướng. Này Phật tử, chư Phật Như Lai vì làm cho chúng sanh sanh tâm hân hoan mà xuất hiện ra đời, muốn làm cho chúng sanh có lòng luyến mộ mà hiện Niết Bàn nhưng thật Phật không có ra đời cũng không Niết Bàn. Tại sao? Vì Phật thường trụ cảnh giới thanh tịnh, tùy theo tâm chúng sanh mà thị hiện Niết Bàn.

Này Phật tử, ví như mặt trời mọc chiếu sáng khắp thế gian, vào nơi tất cả đồ chứa nước sạch mà không hiện bóng. Này Phật tử, ý ông nghĩ sao, bóng mặt trời không hiện là mặt trời có lỗi không?

Đáp: Không có lỗi. Chỉ do đồ chứa hư (bể) không phải lỗi ở mặt trời. Này Phật tử, trí Như Lai cũng như thế, chiếu sáng khắp pháp giới không có trước sau. Tất cả chúng sanh tâm lắng thanh tịnh, Phật hiện thân ngay; tâm tánh thường lóng trong luôn thấy Phật hiện. Nếu tâm dơ vật hỏng không thấy Phật.

Này Phật tử, nếu có chúng sanh phải dùng Niết Bàn mà độ đó Phật hiện Niết Bàn, nhưng thật Như Lai không sanh không diệt, không có diệt độ. Này Phật tử, thí dụ như lửa cháy lớn khắp hết thế gian, ai cũng phải lo chữa cháy hoặc có nơi một lúc, lửa liền tiêu hết. Ý Ông nghĩ thế nào, tất cả lửa thế gian đều dứt hết chăng?

Đáp: Không thể dứt hết. Này Phật tử, Như lai hiện Chánh Đẳng giác cũng lại như thế, trong các thế giới làm các Phật sự hoặc nơi một thế giới làm việc xong mới thị hiện Niết Bàn; đâu phải các thế giới chư Phật Như Lai đều diệt độ hết cả đâu! Này Phật tử, đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác, nhập đại Niết Bàn. Lại này Phật tử, ví như huyễn sư khéo làm trò huyễn thuật, vì lực huyễn thuật trong hết thảy mọi quốc độ ở 3000 đại thiên thế giới nào thành ấp, xóm làng hiện thân huyễn. Vì duy trì lực huyễn trải qua kiếp số mà tồn tại, nhưng nơi các xứ khác việc huyễn đã xong, huyễn sư ẩn thân không hiện.

Này Phật tử, ý Ông nghĩ thế nào, đại huyễn sư kia đâu phải ở một nơi ẩn thân không hiện mà làm cho tất cả mọi nơi đều diệt hết sao?

Đáp: Không phải như vậy.

Này Phật tử, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác cũng lại như thế. Khéo biết vô số trí phương tiện bằng mọi huyễn thuật trong các cõi mà hiện thân khắp nơi; giữ cho luôn tồn tại đến vị lai tế hoặc ở một nơi, tùy theo tâm chúng sanh mà làm việc xong lại thị hiện Niết Bàn. Đâu có thể lấy một nơi nhập Niết Bàn mà cho là tất cả đều diệt độ. Này Phật tử, đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác, đại Niết Bàn. Lại này Phật tử, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác lúc hiện Niết Bàn nhập bất động tam muội, khi vào tam muội này trong mỗi mỗi thân đều phóng ra vô lượng trăm nghìn ức vô số ánh sáng lớn; mỗi ánh sáng đó xuất vô số lượng hoa sen. Mỗi hoa có vô số nhụy hoa báu, mỗi nhụy hoa có một tòa sư tử. Trên mỗi tòa sư tử đều có Phật ngồi kiết già thiền định, các đức Phật phân thân vô số hợp với số chúng sanh đều đầy đủ công đức trang nghiêm. Do bổn nguyện lực phát sanh, nếu có chúng sanh thiện căn thuần thục thấy được thân Phật đều được Phật giáo hóa. Song thân Phật kia ở trong ngằn mé đời vị lai hoàn toàn an trụ tùy cơ hóa độ hết thảy chúng sanh chưa từng thôi nghỉ. Này Phật tử, thân Như lai không ở một phương sở nào, chẳng thật chẳng hư, chỉ vì bổn thệ nguyện chư Phật mới kham độ chúng sanh, bèn xuất thế. Đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác đại Niết Bàn. Này Phật tử, Như Lai trụ trong vô số pháp giới, an ổn vô ngại cõi hư không, chân như pháp tánh không sanh không diệt. Và vì thật tế, vì chúng sanh tùy lúc thị hiện để duy trì bổn nguyện không có chấm dứt; không bỏ chúng sanh, cõi nước và các pháp.

Tiếp theo tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường như nghi cúng Tổ Đạt Ma, chỉ thay đổi lời bạch:

Cung kính nghe rằng pháp sư, theo dấu Thiên Thai tôn xưng Hiền Thủ, là Tông chủ tông Hoa Nghiêm, thành một nhà giáo quán. Nhưng một tôn chỉ ở Kỳ Châu muốn ngộ Phật thừa, giảng pháp đại thừa vào đời Đường bọn tả đạo hồi tâm. Từ đó 10 tông thành lập, 5 phái thường còn làm kim chỉ nam của ngàn sau, làm thầy dạy pháp cho muôn đời… Nay gặp ngày húy nhựt Ngài xin phụng hiến hương hoa cúng dường kỷ niệm. Lại nguyện, đèn trí sáng soi mãi mãi, ấn Tổ rạng ngời, xin gia hộ cho người sau tiếp tục duy trì tông phong lâu dài.

Bạch xong, đại chúng cử tán bài:

Lành thay Hiền Thủ

Mô phạm muôn đời

Bao năm lập nguyện truyền thừa

Chí cầu pháp mạch sâu

Trước thuật mãi truyền lưu

Chớ bàn chỗ thậm huyền

Nam Mô Hiền Thủ tông chủ Quốc Nhất pháp sư (3 lạy).

Chứng nghĩa ghi rằng: Tông Chủ húy là Pháp Tạng, tự Hiền Thủ, Vua phong là Ích hiệu Quốc Nhất, là Tổ thứ 3 tông Hoa Nghiêm ở Đông Độ. Ngài họ Khương, người nước Khương Cư sanh ngày mồng 2 tháng 11 năm Trinh Quán thứ 17 đời Đường, cùng với ngài Thiên Thai Trí Giả trước sau gần 200 năm, chuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm có 1 phẩm là Hiền Thủ, lại là trong 10 vị Bồ Tát có một vị tên Hiền Thủ. Nên lấy 2 chữ Hiền Thủ đặt pháp tự; cũng như lấy chữ này thành lập tông. Cũng giống lập giáo quán tông Thiên Thai có chỗ đại đồng tiểu dị. Phần Kinh tụng ở trên, phẩm Như Lai xuất hiện chương Niết Bàn, lấy lời dạy chính của Phật thành lập tông, mà nay việc cúng giỗ thích nghi vậy. Tông Thiên Thai dùng Kinh Pháp Hoa phẩm Thọ Lượng cũng là ý này.Về sau ngày giỗ kỵ tụng Kinh phần nhiều tụng Tâm Kinh, chú vãng sanh hoặc tụng Kinh A Di Đà, nếu cúng trước linh của người thế tục. Như các bậc Tổ Sư cao tăng sớm đã ra khỏi 3 cõi đâu có như phàm phu mà cầu siêu độ ư? Cho nên đối với chư Tổ mỗi vị tùy theo tông phái mà tụng niệm cho thích hợp. Như Tổ Thiền Đạt Ma ở trước tụng 108 câu Kinh Lăng Già, lấy tâm ấn thiền tông, không như 108 câu ở đây. Tổ Bách Trượng ở trước tụng phẩm Phạm Hạnh, Kinh Hoa Nghiêm lấy chỗ giống với Thanh Quy. Lại như Đạo Tuyên luật sư tụng bài kệ Kinh Phạm Võng; Liên Xã Tổ Huệ Viễn tụng chương Đại Thế Chí. Ngăn các môn phái không đặt lẫn lộn cho con cháu, dễ nắm rõ mỗi tông về tôn chỉ riêng mà sự linh hiển của chư Tổ cũng gia tăng theo sự yêu thích riêng. Ý nghĩa chung không đặt thẳng thừng, theo danh tham khảo thích hợp cơ nghi. Tuy mới bổ túc cho lớp sau, nhưng cúng chư Tổ cũng phải giữ nguyên kế tục như trước như mỗi phái đã có quy định.

1.5Giỗ Đạo Tuyên Luật Sư

Ngày mồng 3 tháng 10 lễ giỗ Nam Sơn tông chủ, Đạo Tuyên luật sư. Nghi thức giống như cúng Tổ Đạt Ma. Trước tiên cử tán:    Nam Mô Nam Sơn tông chủ Đạo Tuyên luật sư(3 lần).

Tiếp theo tụng Kinh Phạm Võng, bài kệ phẩm Bồ Tát tâm địa rằng:

Người sáng nhẫn huệ mạnh

Trong lúc đạo chưa thành

Hay giữ được pháp này

Đạt được năm điều lợi:

Một là 10 phương Phật

Thương tưởng hộ niệm luôn

Hai là lúc mạng chung

Chánh niệm tâm hoan hỷ

Ba là sanh chỗ nào

Bồ Tát kết bạn lữ

Bốn là nhóm công đức

Giới độ đều thành tựu

Năm là đời này, đời sau

Phước huệ trọn đầy đủ.

Như thế, này chư Phật tử, kẻ trí khéo suy nghĩ: người nào ưa chấp ngã trước tướng không có khả năng tin pháp này. Người thọ diệt chấp chứng đắc cũng không hạ quyết tâm gieo căn lành; muốn nảy mầm Bồ Đề sáng soi rọi thế gian, phải nên quán sát kỹ. Các pháp tướng chân thật, không sanh cũng không diệt; không thường cũng không đoạn; không một cũng không khác; không đến cũng không đi; trong thể nhứt tâm ấy, phương tiện để trang nghiêm.   Chỗ đáng làm của  Bồ Tát  cần phải tuần tự  học:

nơi học nơi vô học, chớ sanh tướng phân biệt. Đó gọi là đệ nhứt đạo, cũng gọi là ma ha diễn; hết thảy ác hý luận, ắt theo đó mà tiêu diệt. Chư Phật tướng vắng lặng, hẳn từ đây ra. Vì thế chư Phật tử, nên phát tâm đại dũng mãnh nơi tịnh giới chư Phật gìn sạch như minh châu. Chư Bồ Tát quá khứ cũng đã học như thế, và vị lai sẽ học, hiện tại nay đang học. Đây là Phật hành xứ, bậc thánh chúa xưng tán. Ta đã tùy thuận nói phước đức, nhóm không lường đem ban cho chúng sanh, cùng hướng tới nhứt thiết trí. Nguyện người nghe pháp này, chóng đạt thành Phật đạo.

Tiếp theo tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường… giống nghi cúng Tổ Đạt Ma, chỉ thay đổi lời bạch như:

Cung kính nghe rằng giới luật còn ở đời, Thánh đạo vững nền. Ngài Ưu Ba Ly kết tập luật tại Ấn Độ; còn đại sư xuất thân nơi Đông Độ, kế thừa lãnh đạo, truyền pháp tại Chung Nam (Nam Sơn), Trung Hoa, cùng ngưỡng phục, giới quang tinh khiết được tôn xưng luật chủ. Cảm kích sự hộ vệ của trời người, nhận rằng Phật (Xá Lợi) để biểu tượng. Y theo Phật dạy mà lập giới đàn cho đời sau nương theo mãi mãi; theo lời chư thiên để tập truyền ký, bao hàm tư liệu thời mạt pháp. Nay gặp ngày húy nhựt tôn sư xin tỏ chút lòng thành tinh khiết. Lại nguyện, luật nghi vững thạnh, ấn Tổ thêm tỏ rạng, hương giới phủ che khắp 9 châu; mưa pháp đượm nhuần trong 7 chúng.

Tiếp theo cử tán:

Ưu Ba Ly tái thế

Luật học đang phát huy

Giáo chủ Nam Sơn âm chấn động

Ba tụ (giới) hai trì biển giới lóng trong

Chánh pháp mãi mãi hưng long.

Nam Mô Nam Sơn tông chủ Đạo Tuyên Trừng Chiếu luật sư (3 lạy).

Chứng nghĩa ghi rằng: Tông chủ húy Đạo Tuyên, tự Thật Tướng, hiệu Trừng Chiếu, là Tổ nguyên sơ làm hưng long luật tông. Đời Đường Cao Tông sắc phong là Thiên Hạ tự viện, cho lập đồ hình tạc tượng phụng thờ. Khải Tông sắc phong Ích Trừng Chiếu Thánh Sư, có đăng tải đầy đủ trong Tống Cao Tăng truyện quyển 14. Nay dâng cúng tụng Kinh Phạm Võng bài kệ cuối cùng phân thành 3 đoạn:

Đoạn 1, 16 câu: tánh thưởng ý nghĩa trì giới có lợi ích

Đoạn 2, 24 câu: quán sát thật tướng ý nghĩa giới thể

Đoạn 3, 16 câu: khuyên giữ gìn tịnh giới và ý nghĩa hồi hướng tự lợi cũng như lợi tha.

Ngưỡng nguyện nhân lễ dâng cúng này mà niệm nghĩ khắc ghi nơi tâm thức. Cũng có thể phát nguyện tụng 2 giới, xem chương Trụ Trì ở sau, phần dâng hương; nên tụng nhuần nhuyễn mới tĩnh tâm mà tự răn dè mình đó.

1.6Húy Nhựt Huệ Viễn Tổ Sư

Ngày mồng 6 tháng 8 là lễ giỗ Tịnh Độ tông chủ Huệ Viễn lão Tổ. Giống như nghi thức cúng Tổ Đạt Ma. Trước hết cử tán:

Nam Mô Liên Tông Sơ Tổ Huệ Viễn Tổ Sư (3 lạy).

Tiếp theo tụng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Đại Phật đảnh Như Lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩa chư Bồ Tát vạn hạnh - Đại Thế Chí con đấng Pháp Vương cùng 52 Bồ Tát đồng hàng từ tòa ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật và bạch rằng: bạch đức Thế Tôn, con nhớ trong quá khứ vô số kiếp về trước có đức Phật xuất thế hiệu là Vô Lượng Quang với 12 đức Như Lai kế tục trong một kiếp. Đức Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhựt Nguyệt Quang, vị Phật ấy dạy niệm Phật tam muội. Như có một người chuyên tâm nhớ nghĩ, còn một người ưa quên, 2 người ấy, nếu có gặp nhau cũng như không gặp, hoặc có thấy mà như chẳng thấy nhau. Còn nếu cả hai người cùng nhớ nghĩ và cả 2 nghĩ sâu sắc, như thế từ kiếp này sang kiếp khác như bóng theo hình không thể rời nhau. Mười phương chư Phật thương nghĩ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con có mất đi, mẹ nghĩ không biết con đang làm gì. Lúc con nhớ mẹ, mẹ nhớ con; mẹ con dù sanh ở đâu không phải là quá xa cách. Cũng như tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật ở hiện tại hay trong tương lai, quyết định thấy Phật, cách Phật không xa. Không mượn phương tiện tâm tự khai ngộ, như người xoa nước hoa, thân thoảng mùi thơm. Đây gọi là hương thơm trang sức. Nhân gốc của ta là dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn. Nay ở cõi này, người nhiếp tâm niệm Phật sanh về Tịnh Độ.

Phật bảo Bồ Tát Viên Thông: Ta không chọn lựa mà đều giữ gìn 6 căn tịnh niệm liên tục đạt được tam ma địa (đại định) đây là đệ nhứt.

Tiếp tụng chú vãng sanh 3 lần, niệm Phật 108 hiệu. Kế tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường. Duy Na quỳ gối chấp tay bạch rằng:

Cung kính nghe rằng tịnh nghiệp Tông Chủ tên thật là Viễn Công, hiện dấu tích còn tại Nhạn Môn, mở pháp xây nền thống nhất 123 người cùng một ý sanh Tây phương. Duy chọn ngày 28 tháng 7 là ngày hiệp kỵ tại Đông Lâm Xã mà thiên hạ tôn ngưỡng phong cách cao vời của các Ngài. Giáo thuyết Tây phương mãi mãi thơm hương, muôn đời thấm nhuận hồng ân. Nay là ngày tốt sen đang đua nở, chúng con chí thành dâng nén tâm hương cúng dường tưởng niệm.

Lại nguyện, không quên bổn thệ theo Đức Di Đà dẫn dắt thuyền từ độ khắp, đưa rước chúng sanh về nơi an dưỡng quốc.

Tiếp theo cử tán:

Đại nguyện thứ nhất, quán tưởng Di Đà

Bốn mươi tám nguyện độ Ta Bà

Chín phẩm hiện liên hoa

Lưới vàng giăng bủa khắp

Cứu chúng sanh vượt ái hà (sông ái).

Nam Mô Tịnh Nghiệp tông chủ Viễn Công Tổ Sư (3 lạy).

Chứng nghĩa ghi rằng: Tông chủ ghi trong các liệt truyện: xuất Cao Tăng Truyện quyển 6, ở đây không nêu ra hết. Dâng cúng tụng phẩm Đại Thế Chí chương niệm Phật Viên Thông. Lấy chương này khai thị rất là chánh đáng. Ngài U Khê giải thích rằng, niệm Phật tam muội là người niệm Phật đem tâm duyên với Phật, lấy Phật buộc tâm; tâm tâm tương tục không hề gián đoạn. Lúc đó một tâm không khởi, ngoại cảnh không xâm. Tự quay trở lại ban đầu hoàn toàn đảo ngược. Đúng không thọ những gì phải thọ mà được sao? Thọ đúng nên gọi là niệm Phật tam muội. Trước nêu ra thí dụ: như một người chuyên nhớ nghĩ, ví như Phật nghĩ tới chúng sanh, làm thế nào cứu ra khỏi 3 cõi. Một người ưa quên, dụ chúng sanh chỉ vì tham 5 trần cảnh mà chịu khổ trong 6 đường. Giữa 2 người đó dù gặp nhau cũng như không gặp; có thấy nhau cũng như không thấy. Cũng như Phật luôn thấy chúng sanh mà chúng sanh thường không gặp thấy Phật. Thí dụ này cho thấy chúng sanh bỏ mất không niệm Phật. Hai người nhớ nhau, dụ như khi Phật nhớ chúng sanh, chúng sanh lúc đó cũng nhớ Phật mới gọi là 2 bên nhớ nghĩ sâu. Nên niệm nghĩ như thế thì đời đời thường thấy Phật, nơi mỗi quốc độ thấy được Như Lai. Nên nói rằng, như thế cho đến từ đời này sang kiếp khác giống như bóng với hình không lìa nhau. Kế tiếp thí dụ người mẹ và đứa con là đúng nhất. Như Lai thương nghĩ chúng sanh như mẹ nhớ con, hợp nhau ở điểm chuyên nhớ nghĩ. Như con có chết mẹ nghĩ không biết con đang làm gì. Hoặc giả như một người ưa quên, đây dụ cho người bỏ mất không niệm Phật. Kế đến người chuyên niệm Phật, như con nhớ mẹ. Chỉ cách để nhớ mẹ đang lúc mẹ nhớ con. Người niệm Phật dùng công phu miên mật không một khắc nghĩ tới 5 món dục thế trần đây gọi là buộc niệm, mới gọi được là như lúc mẹ nhớ con. Mẹ con dù ở đâu cũng không xa cách nhau vậy. Lại nhớ Phật là luôn niệm nghĩ tưởng; niệm Phật là tâm chú ý một cảnh thì trong hiện tại và tương lai quyết định thấy Phật. Trước mắt như Ngài Viễn Công, thấy 3 loại Thánh tướng, tương lai là lúc lâm chung được Phật tới rước, cho đến như hoa nở thấy Phật, cách Phật không xa, vì người niệm Phật không chỉ thấy Phật mà cũng thấy gần Phật, chẳng lâu sau chắc chắn thành Phật. Không mượn phương tiện tự tâm đạt khai ngộ, có nghĩa tự cất tiếng niệm, là duyên với cảnh Phật. Sự lý viên dung, năng-sở dứt đối đãi, có nghĩa ta là nhân chính dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn. Nếu không như thế cũng khó chứng ngộ vô sanh. Không mượn phương tiện là tin không sai, như người xức nước hoa, dụ chúng sanh vốn không phải Phật, nhân niệm Phật mà có hương thơm của Phật gọi là hương trang sức. Phật tròn đầy do niệm Phật mà hiển bày; niệm nhờ Phật mà huân sâu. Có nghĩa lấy hương pháp thân chư Phật mà trang sức chăng? Sắc thân chúng sanh vốn nhân 3 câu: Kết tự hành nhân quả tương ứng nay ở cõi này có 3 câu mà quả ấy về sau lợi người, lấy đó làm tự độ. Lấy đây dạy người cũng như lấy lực này mà nhiếp hóa chúng sanh. Ta không chọn lựa mà đều thu nhiếp 6 căn. Niệm thuộc về ý căn nên nhận biết, tu tập cũng đều thâm nhiếp các căn, căn căn niệm Phật vậy. Ý căn nếu thanh tịnh hẳn các căn đều thu nhiếp cho nên nói không chọn lựa là vậy. Trong thời gian hành trì chỉ niệm Phật Di Đà, và cầu sanh Tịnh Độ, niệm không gián đoạn, tức niệm thanh tịnh liên tục. Niệm Phật theo phương pháp đó thật là vượt hơn các pháp môn khác, nên nói rằng nhập tam ma địa, là như vậy.

1.7Cúng Tổ Khai Sơn

Phàm gặp ngày giỗ Tổ Khai Sơn bổn tự hay ngày giỗ lịch đại chư Tổ, tri khách phải cho chúng biết trước, bạch qua vị Trụ Trì và ra thông báo gởi đài phát thanh, đăng báo. Thông báo viết: ngày mai là ngày… tháng… năm… gặp ngày kỵ Tổ, xin đại chúng sáng sau thời Kinh Lăng Nghiêm vân tập vào chánh điện lễ Phật, cúng ngọ. Thị giả vào hậu Tổ thiết đặt hình hoặc tượng Tổ trang nghiêm, dâng hoa quả, một vài món thức ăn để gọi là cúng tiến thực. Sắp đặt hương đèn, trà bánh buổi tối đó, nghe 3 hồi kiểng đại chúng tập họp trước bàn thờ Tổ, thầy Trụ Trì niệm hương, dâng trà cúng, lạy 3 lạy. Duy Na xướng cho đại chúng cùng lạy Tổ 3 lạy. Lạy xong, lui ra hoặc dự thời tụng Kinh.

Thầy Duy Na và Tri Khách phải mời các thầy tham gia lễ tụng. Nghi thức giống như cúng Tổ Đạt Ma trước. Tới giờ cúng ngọ, đại chúng vân tập đại điện, thầy Trụ Trì niệm hương, xong lạy 3 lạy. Duy Na cử tán bài Lư Hương… Tiếp theo hoặc tụng Kinh Di Đà hay chỉ cúng ngọ. Xong tất cả đến nhà Tây. Trước Trụ Trì chúng đứng 2 bên, đứng theo thứ tự, mỗi bên 6 người thành một ban trên dưới, gần phía trước cửa đứng ngay ngắn. Thủ Tòa vào nhà Tây, Thầy Trụ Trì, Duy Na 3 người quỳ để , 2 thầy Tri Khách đứng hầu 2 bên tượng, tuần tự dâng thức ăn lên cúng Tổ, các thầy tiếp đồ hiến cúng để lên bàn thờ; kế dâng trà, thứ tự từ vị đầu mỗi người châm trà một lượt truyền cho Thủ Tọa. Thủ Tọa bưng ngay ngắn đưa sang Thầy Trụ Trì. Thầy Trụ Trị châm trà xong chuyền sang ban phía Tây theo thứ tự, tới điểm phạn xong, tụng chú biến thực, cam lồ thủy, phổ cùng dường…

Mời Hòa Thượng Phương Trượng đứng chính giữa, đại chúng đứng 2 bên, tụng Kinh Di Đà xong mới tụng chú và niệm danh hiệu Phật 108 biến. Duy Na cử tán, tùy nghi tán bài nào thích hợp và đợi Thầy Trụ Trì châm trà và lạy xong, bài tán chấm dứt. Duy Na xướng, đại chúng lạy Tổ 3 lạy. Lễ Tổ xong, xướng đảnh lễ Hòa Thượng xong, đại chúng lui về chỗ. Đây chỉ cho Tổ Khai Sơn, các Tổ Trung Hưng (kế thừa), kế thừa thọ học như Thầy thế độ (xuống tóc cho ta) cũng như vậy. Các Tổ khác không có tụng kinh, cũng không nhất nhất quỳ cúng mà chỉ dâng cúng trà mà thôi. Song Tổ Khai Sơn là người có công với bổn tự và chỉ định trụ trì mới vào đúng vị; nhận sự lễ lạy của đại chúng. Không thể so sánh giống nhau, các lễ kỵ khác làm đơn giản, không nên lầm lẫn.

Chứng nghĩa ghi rằng: đây là báo đáp ân đức sáng lập, cùng kế thừa để duy trì pháp mạch. Uống nước nhớ nguồn, ngày lễ cúng giỗ không nên quên sót.

1.8Lễ Cúng Thầy Nối Thừa Pháp

Phàm gặp ngày giỗ bổn sư nối thừa pháp. Những phẩm vật cúng đã nói đầy đủ phía trên. Riêng Phật sự này Thầy Trụ Trì phải tự xuất tiền chi dụng, và mở kho lấy vật liệu thiết trí đầy đủ. Nhờ thư ký viết một lá sớ, giả như không có lòng sớ nào đầy đủ hơn nên dựa sớ này mà viết; phải ghi đầy đủ quê quán, năm sanh, ngày mất của Thầy như sau:

Kính ôn lại bổn sư, tánh người hiền hậu, dứt tuyệt tướng ngã nhơn, nối giòng mô phạm tòng lâm, hạnh giống như Tổ Bách Trượng, đường đường tăng tướng, đức vượt cao phong, truyền tâm đăng đời thứ… giòng Lâm Tế; ngón tay vạch mây thấy trăng; nương dấu tích mà hạ sanh hưởng thọ… năm trong trần thế, đáp tạ trần lao mà quay gót quy thân. Nay gặp ngày húy nhựt, môn nhơn đệ tử chúng con rất trân quý ví như mầm non được thừa ân y bát. Do vậy vân tập chúng tụng kinh… nhứt diên, trải tâm thành trước Từ Tôn bày pháp tịch của nhơn thiên. Nguyện đem công đức này kính mong đền đáp phần nào công ơn trong muôn một.

Lại mong trên đỉnh Linh Thứu trước kia đấng Diệu Giác cao siêu chiếu ánh quang vào cõi này thân thường lạc phi tướng. Môn nhơn chúng con chí thành dâng sớ. Phật lịch 2551.. ngày… tháng …năm 2007.

Chứng nghĩa ghi rằng: Đây là việc báo ân truyền pháp. Cha mẹ sanh ra sắc thân ta, bổn sư sanh pháp thân huệ mạng cho ta. Sắc thân giả tạm không thật; huệ mạng lợi ích vô cùng. Đó là ân cha mẹ mà còn báo đền, huống nữa ân Thầy lại càng khó đáp báo hơn. Mạo muội dâng chút rau dưa tâm thành mà chẳng lưu ý đó sao? Cũng như Ba Lăng ba lần chuyển ngữ làm cho Vân Môn lễ giỗ cúng thầy. Bậc tiền bối dụng tâm sâu sắc như thế, nhưng ngày nay trong thời mạt pháp không nghĩ tới sự cúng tế, lại càng lạnh nhạt như chẳng quan tâm. Rốt cũng chỉ bọn ưa danh vị, quên gốc phụ lòng mà lãnh truyền pháp cho người khác, thật là đáng buồn thay!

Sách Thiền Tông bí yếu ghi rằng: Diễn Thiền sư Ngũ Tổ ngồi bên dưới có một học giả tên là Khai Thánh Học. Đầu tiên tham vấn đi hành cước với Trường Lô Phu Thiết lâu ngày mà không đạt ngộ. Nghe uy đức Diễn Thiền sư bèn tạo một chỗ ngồi. Một ngày kia vào thất hỏi rằng:

-     Thích Ca, Di Lặc là do người khác chọc giận, vã đạo để cho ai?

Giác đáp:

-     Râu Trương ba chòm, bốn cây mận trước sân.

Sư Diễn nghe liền ngộ. Hòa Thượng ngồi nguyên, Sư lặp lại câu nói trước, hỏi:

-     Ngộ không?

-     Tốt thì có tốt, nhưng e chưa phải thật, không nên buông phóng.

Bèn ngay đó tìm tòi, hôm sau tới thất bạch hỏi như trước. Giác nói:

-     Việc hôm qua Hòa Thượng hiểu không?

Sư Diễn hỏi:

-     Đạo là gì?

Giác đáp:

-     Râu Trương ba chòm, bốn cây mận ngoài sân.

Sư Diễn nói:

Không đúng, không đúng.

Giác nói:

-     Hòa Thượng hôm qua thật đã hiểu đạo.

Sư Diễn đáp:

-     Hôm qua hiểu, hôm nay không hiểu.

Giác nhân lời nói đó mà đại ngộ. Sau này Giác ra làm Trụ Trì chùa Khai Thánh, thấy đạo tràng Trường Lư hưng thịnh bèn nối thừa Phu Thiết Cước, nguyên chẳng đạt ngộ sở đắc. Lúc niệm hương bổng cảm biết ngực trước đây như bị đâm, liền cảm thấy đau nhói thành nhọt có lỗ; dùng bột sữa thơm trét lên lâu không hết, rồi sau qua đời. Ôi, cô phụ bốn trọng ân mà được phó pháp như thế để chịu khổ báo! Kẻ hậu học chớ dẫm lên dấu vết ấy.

Ngoài ra, sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng: đời Tống có người tên Hoài Chí người Kim Hoa, lúc nhỏ đang đi học, nhân gặp một thiền tăng cổ võ, bỏ học đi tham phương cầu đạo. Sau đến Động Sơn được đắc pháp với pháp hiệu là Chân Tịnh Văn Thiền Sư. Lâu sau đó viên tịch. Sư Chân Tịnh phó chúc rằng: Thiền ta tuy miễn cách, tích lục chẳng đâu hơn. Chí bái thọ rồi đi tới Viễn Châu, người trong vùng mời trụ trì chùa Dương Kỳ, Ngài khoát tay đi luôn. Rày đây mai đó tới Tương Thượng, Đàm Mục mời trụ lại phong Bắc thiền, từ chối không nhận. Ở ẩn nơi Hành Nhạc hơn 20 năm, Ngài có bài kệ:

Vạn duyên bặt dứt cảm như người si

Tung tích lờ mờ khác chi nai lạ

Thong dong cởi áo gác tay làm gối

Hết đời mộng mơ ẩn cư duyên hội

Tối ném long án, long án một nơi

hưởng trọn tuổi già, nơi nhà rất vui

Ngài Liên Trì tán thán rằng: người đạt sở cầu tuân theo di mệnh mà sức mạnh địch lại những sự thỉnh mời đó không khó sao? Người bây giờ háo danh đắm lợi bỏ phế lễ nghĩa, không mời mà đến, là những phần tử như thế! Há không tức lắm sao! Vâng mạng lệnh thầy đi vào nề nếp.

1.9Lễ Giỗ Hai Thầy Thế Độ và Giáo Thọ

Gặp ngày giỗ 2 Thầy thế độ và giáo thọ, theo như nghi trên, Trụ Trì cũng lại xuất tiền lo lễ. Thiết trí lễ phẩm, viết sớ cúng đại ý như:

Thiết nghĩ rằng, con tên…trăm kiếp nghìn đời trôi lăn trong dòng sanh tử, may được cạo bỏ tóc râu (thầy giáo thọ nên đổi lời là “dạy nghiêm từ”), được vào cửa Phật (đổi lời là pháp môn), nghĩ ân đức sâu dày thật khó báo đền. Từ những ngày xa vắng chân linh quy tịch, thật là một sự xao động của hải triều; chỉ ngày giỗ hôm nay chúng con nội tự thống thiết nghĩ trời cao khó báo đáp ân sâu. Do đó vân tập chúng lại tụng Kinh nhứt diên biểu tỏ chút lòng thành, cúi xin thầy chứng giám.

Lại nguyện, Phật nhựt phóng quang chiếu phá tội chướng đời này, gió từ phủ khắp quét sạch oan khiên kiếp trước; trong khoảnh khắc sanh về Cực Lạc quốc, được ngồi đài liên hoa. Bồ Đề tâm bất thoái, trí bát nhã thường sáng soi.  Toàn thể hiếu đồ đệ tử chúng con chí thành dâng sớ.

Phật lịch… ngày…tháng…năm…

Chứng nghĩa ghi rằng: Thầy thế độ và y chỉ là 2 trong 5 bậc a xà lê nêu ở trước. Những vị này tuy không làm cho ta đắc pháp nhưng ta đã từng theo xin cạo tóc hoặc học kinh điển. Nêu lên đây chứng tỏ ta không quên nguồn gốc vậy…Người đệ tử ngày xưa thầy mất mà niềm tin vẫn kiên cố, đệ tử ngày nay thầy còn sanh tiền nhưng vẫn xem nhẹ, huống gì nhớ ngày lễ giỗ cúng kính chứ? Lý do dễ hiểu lúc đầu xuất gia thật không muốn y chỉ bậc chân sư, lao theo sanh tử mà chỉ nhất thời tùy tiện (tùy hứng) mà thôi. Tâm người như thế thấy lợi thì dễ sa, gặp bạn ác lôi kéo cũng dễ ngã. Cẩn thận lời dạy của thầy làm đúng thời dễ nhưng lại bỏ chánh theo tà; hình tướng là tăng nhưng tâm lại theo tục. Như thế, làm sao Phật Pháp không suy đồi cho được! Y cứ trong luật Phật dạy, đệ tử lìa thầy quá sớm. Nếu thầy thật bất minh hoặc không giữ giới mới tìm cách xa thầy.

Sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng: Đường Thanh Giang lúc ấu thời ngộ lý vô thường giả ảo, lạy Luật sư Đàm Nhất làm thầy y chỉ, nhờ tụng Kinh bái sám giáp mặt mà thông. Kẻ thức giả nói rằng: Sư này tài năng trác tuyệt, luôn cùng với thầy hơi ngang ngược, bỏ đi du phương qua các đạo tràng và tự trách rằng, nửa hạnh của thiên hạ như thầy tôi là tuyệt vậy. Bèn trở về lại Thầy xưa đương lúc chư tăng nhóm họp, xử phạt đề nghị rằng: Thanh Giang trở lại nương nhờ Hòa Thượng, mong Ngài nhận cho. Lúc đó có một thầy chế nhạo cho rằng: Thanh Giang lấy 2 giọt nước mắt sám hối tạ tội. Niệm trước vô tri, tâm sau tỏ ngộ, mong Hòa Thượng đại từ hoan hỷ tha thứ, thương xót lại lần thứ tư. Luật sư thương tình tha thứ nhận làm thầy như lúc ban đầu. Sư Đàm Nhất tịch, hầu hạ thầy hết lòng và được truyền tâm pháp. Tổ Liên Trì ca tụng rằng: bỏ Thánh hiền mà biết lỗi trái, đang bị nhục mạ mà không thoái tâm, đáng gọi là thành thật sáng suốt, sau được truyền tâm ấn, chẳng có lý do hay sao? Bọn thiếu tin kia, ngờ vực thời đi mất hút không trở lại; bị mắng đuổi ắt giận không nguôi. Không gặp minh sư chung cục có lợi ích gì, như gặp minh chúa mà không giữ được 3 chức quan, đáng tiếc thay!

1.10     Phụ: Cúng Giỗ Cha Mẹ

Cúng giỗ cha mẹ, nghi thức đơn giản, không giống nhau. Chỉ người thân không phải những quan chức. Thầy Trụ Trì dự định ngày, sai thị giả đi thông báo, thay thế cho thiệp mời nghi cúng. Nếu có tụng kinh, thị giả bạch Thầy Duy Na ở phòng khách cùng dán thông báo tại đây hay tại trai đường.

Thông báo rằng: ngày mai (mấy) là lễ giỗ thân phụ Hòa Thượng đàn đầu hoặc thân mẫu (tùy theo đó đổi chữ thích hợp), tụng Kinh…, mời bao nhiêu vị Kinh sư nêu danh tánh như dưới đây:

…….

…….

…….

Vào thời Kinh tối tại chánh điện, Thầy Trụ Trì sai thị giả hầu bên trái Hòa Thượng Phương Trượng. Sắp xếp đầy đủ vật cúng như hương hoa, trà quả đặt trước bàn thờ linh. Khóa lễ xong, đại chúng trở lại trai đường. Vị Trụ Trì ra trước sơn môn đến bàn linh tỏ lời mời như sau:

Tôi là… ngày mai nhân ngày giỗ phụ (mẫu) thân của Hòa Thượng bổn sư. Vì thế bổn tự có thiết lễ cúng Phật, tụng kinh cầu siêu mong cho chân linh cụ ông (cụ bà) nhờ lực bất tư nghì của Phật, chư tôn Bồ Tát, Thánh hiền, long thiên hộ pháp chứng minh tiếp độ. Tôi là … , đây mời chân linh tới chùa ngày mai lúc 10g sáng để được cầu siêu độ.

Nên thỉnh 3 lần như thế, phải quán tưởng hình dung, tiếng nói của cha, hoặc mẹ, nương nhờ uy đức lời thỉnh mà đến. Nghĩ cha, mẹ đã đến chùa thực sự. Nghĩ họ, cùng theo về chùa, rồi đem đặt vào vị trí, xá 4 xá niệm hương, dâng trà. Nghĩ rằng cha mẹ đang ngồi đó rất hoan hỷ an lạc; lại xá 4 xá rồi lui.

Đêm đó, Thầy Trụ Trì tự lấy bồ đoàn trải ngồi trước bên dưới bàn thờ, trì niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát 10 ngàn lần. Sáng hôm sau, sau thời Kinh Lăng Nghiêm, Thầy Trụ Trì một mình tới trước bàn thờ đốt hương, cúng trà. Buổi trưa, mời đại chúng cúng ngọ, cúng linh. Nghi cúng như các phần trên, nhưng không cần phải quỳ cũng như không lạy mà chỉ xá. Thỉnh một thầy thuyết pháp, đợi thuyết pháp xong tụng hồi hướng. Duy Na xướng: đảnh lễ Tam Bảo xong, đảnh lễ Hòa Thượng xong lui về chỗ. Buổi tối, tụng kinh xong, phục nguyện, hồi hướng. Trong đó lời lẽ đại loại như sau:

Cúi mong Thích Tôn điều ngự, đấng đạo sư toàn giác hàm 3 tạng, Kinh văn, chữ vàng, bậc đại sĩ lục hòa, giám trông chứng minh tấc lòng thành, ngưỡng vọng oai thần gia hộ (tiếp nhập tục định cư tại….), phụng Phật tụng kinh tiến phụ (hoặc mẫu) hay tiến Tỳ Kheo (tên…) chuyên vì truy tiến hiển khảo (cha)… ở số… đường…vùng…quận…tỉnh… nhứt vị chân linh (nếu mẹ đổi lại là) hiển tỷ tánh danh, ở số… đường… vùng… quận… tỉnh… , hoặc cúng chung phụ mẫu truy tiến 2 người đều đọc tên cả hai. Hôm nay chí thành dâng hương, quy mệnh 2 bậc giáo chủ Di Đà, Thích Ca nơi Cực Lạc quốc, chư Phật, các bậc Thánh hiền tọa trên đài sen, xin cảm thông tình cảnh. Lại vì, hiển khảo hưởng thọ… tuổi, nguyên tạ thế ngày.. tháng…năm; hoặc cúng mẫu thân hoặc tiến cả 2 theo đó mà đọc cho đúng. Tha thiết nghĩ rằng; cha nghiêm (mẹ từ) đức trọng tợ non thái cao vòi vọi, ân dưỡng dục khôn dò dường như biển cả khó mong đáp đền. Bất hạnh thay sớm mất, con chưa được đền ân trong muôn một. Ngày tháng qua nhanh, bóng quang âm biền biệt. Hôm nay ngày… tháng…năm… nhân gặp tuần húy nhật, ngưỡng mong ân đấng đại giác, trên đền đức cù lao (khó nhọc); do vậy mời chư tôn đức tăng già tụng kinh… cầu siêu độ, lấy đây làm vân lộ đưa lối chân linh sớm thoát cảnh u đồ mà siêu sanh thoát hóa.

Lại nguyện: ở cõi trời người được tăng 5 phước, mãn ý tùy tâm, nếu chưa thoát ra các thú, cầu được lên 9 phẩm sen tùy thời an trú. Dâng sớ, cung thỉnh Tam Bảo chứng minh. Phật lịch 25…ngày... tháng…năm… Đệ tử Tỳ Kheo…

Chứng nghĩa ghi: Việc báo đáp ân đức dưỡng dục của cha mẹ và nghe lời nhắc nhở ân của người xuất gia, theo Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán ghi: Phật dạy 4 ân mà ân cha mẹ là đứng đầu. Lương Hoàng Sám pháp ghi: kế lại nên nghĩ tưởng đến ân dưỡng dục của cha mẹ, bế ẳm, cho bú mớm, ái trọng tình thâm, thà mình chịu nguy hiểm để cho con an ổn. Phật dạy: ân trong thiên hạ không gì hơn ân cha mẹ, luận người bỏ tục xuất gia, chưa thể đắc đạo chỉ cần việc học hành, làm thiện chớ bỏ, tích đức không ngừng, ắt cảm được ân đức khó nhọc. Lại nói rằng, trong đó có ân cha mẹ, kẻ mồ côi từ nhỏ khó thể gặp lại, tưởng không lo lắng sao! Chưa đắc thần thông thiên nhãn không biết được cha mẹ xả báo thần thức đi về đâu, sanh ở chốn nào? Chỉ nên lo tạo phước để đền đáp thâm ân, làm thiện không ngừng, công thành ắt đạt được. Kinh dạy rằng, vì người mất mà tạo phước như tặng tiền người đi xa; nếu sanh cõi trời, người công đức càng tăng thêm, như gặp 3 đường ác hoặc bị tám nạn[6]vĩnh viễn lìa được các sự khổ. Nếu người đủ tín tâm chân chánh học chánh pháp làm cho 7 đời cha mẹ siêu ngộ, bà con quyến thuộc nhiều đời lo sợ đều dứt trừ và được giải thoát. Là mẫu người trí nên thành tâm chí hiếu hết lòng báo ân. Sự truy tiến cúng hương linh nên vâng lời Phật dạy.

Sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi: Lương Pháp Vân người Dương Tiện, xuất gia năm lên 7 tuổi là đệ tử Bảo Lượng pháp sư Chùa Trang Nghiêm; Cấu Lãng Anh Tú ở chùa Diệu Âm giảng 2 Kinh Pháp Hoa, Duy Ma. Học giả qui tụ lại có người tên Thành Hiếu ham sắc khiến cho mẹ lo lắng, đến đổi thân gầy gò quá đổi, qua nhiều ngày không ăn uống. Lượng pháp sư nói rằng: Thánh nhân dạy lễ, bậc hiền cúi trông không để thất thố sai sót. Vã ngoài tánh bất diệt còn phát xuất từ Nho giáo huống nữa Phật có lời chí thiết: muốn báo ân sanh thành, gần thời phụng dưỡng chăm sóc đúng nghi cách, xa khuyên cha mẹ phát tâm Bồ Đề để hướng dẫn thần thức nên sớm nghĩ việc xa. Giả sử gặp việc đến làm sao trở tay cho kịp! Đang trong lúc còn sanh tiền, gần gũi chia ngọt xẻ bùi, hầu hạ cháo cơm. Ngài Liên Trì ca tụng: mẹ Tăng Tử chết, cơm cháo không vào miệng trong 7 ngày là việc cư tang của Vân Công, dù sao với Tăng Tử ai làm sao hơn chứ?

Tục ngữ có câu: Thích Tử từ bỏ đấng thân đâu có như vậy sao? Lại nữa, đời Hậu Chu Đạo Không ở Trường An mà trọng bao tử hương lý, tức kẻ có thế lực địa phương (phép vua thua lệ làng). Đường Tôn Thất xuất gia năm lên 7 tuổi, năm 19 tuổi may đỗ đạt được kỳ thi ở Trường An; lại gặp thời binh biến, phải cõng mẹ vào Hoa Sơn dừng lại tại một hang núi lánh nạn. Lúc bấy giờ lúa gạo, củi nước đều quí hiếm chẳng kiếm ra gạo ăn, ông chỉ đi xin ăn nuôi mẹ. Mẹ hỏi: “Con đã ăn gì chưa?” Vì sợ mẹ động lòng lo nên đáp là đã ăn rồi. Mẹ nói: “Cha con chết trận ở Hoặc Sơn (Nam Nhạc – Hành Sơn), con có thể tới đó tìm lấy cốt đem về chôn cất được không?” Thất vâng lời mẹ đi Hoặc Sơn thu nhặt hài cốt. Qua nhiều ngày đêm trì tụng kinh chú chí thành những mong đạt mục đích. Người xưa có tâm thành mà cảm, chích máu đổ xuống đống xương, mong cho trong đống xương ấy cái nào cục cựa là đúng hài cốt cha mình. Nhất tâm chuyên chú mắt không tạm rời mà chỉ chăm chăm nhìn đống xương. Qua nhiều ngày như vậy, có một hài cốt từ trong đống xương nhô ra, lay động. Thất kiệt sức một hồi rồi tỉnh lại, nhặt cốt đựng trong bình lớn mang về gặp mẹ. Đêm đó, bà mẹ mộng thấy chồng về, sáng hôm sau quả nhiên hài cốt đã về tới nhà. Con người do lòng hiếu mà cảm được như thế! Người sau dạy đạo, luận kinh phần nhiều y cứ gốc xưa lấy cội nguồn làm trọng. Việc này Ngài Liên Trì có 2 câu thơ tán thán rằng:

Nhịn ăn nuôi đói mẹ hiền

Tụng Kinh cảm động phăng tìm cốt cha!

Có thể nói đại hiếu gồm việc còn mất đấy mà lòng chí thành đã vượt cả cổ kim vậy. Than ôi! lạ thay và sau đây là câu chuyện Tăng Đạo Kỷ rất gần gũi mẹ, cung kính các bậc tôn túc, dệt vải may áo dâng mẹ. Hiếu của con nhà họ Thích đối bậc thân sinh khác xa với người đời. Sách truyện đăng tải đủ nêu những gương hiếu hạnh người xưa. Đời nay do bịnh, con nhà Thích không trọng người thân có 3 loại bất tài là cái tội của ông Tăng; hưởng của thập phương cúng mà không nhớ nghĩ tới ân cha mẹ. Ba loại bất tài đó là:

1- Ngồi tòa cao nhàn hạ mà không đoái tới cha mẹ lao khổ như người làm công

2- Cắt lìa núm ruột xuất gia mà nhận người khác làm cha mẹ nuôi

3- Sống đã như vậy, chết không cúng kiến thật là không còn lời thống thiết nào hơn.

Vong bản đến thế còn mong gì chấn hưng Phật Pháp chứ?

1.11 Lễ Tháp

Phàm vào dịp Tết đêm trừ tịch (30 Tết) hoặc tiết đông chí có thể tùy đó thay đổi, là định kỳ cúng tháp.

Nơi trai đường, phòng khách dán thông báo cho chúng biết, chẳng hạn, thông báo như sau:

Sáng mai, sau công phu, dùng điểm tâm xong, nghe hiệu lệnh chuông, đại chúng đắp y chỉnh tề vân tập tại trước tháp Tổ. Hôm trước cho dọn dẹp quét tháp, lau chùi sạch sẽ các tháp trước sau, dọn sạch cả lối đi vào tháp. Tới giờ, thầy Tri Khách thỉnh 3 hồi và 3 tiếng đại hồng chung (xưa), bây giờ dùng 3 hồi 3 tiếng khánh đồng hay bảng gỗ. Đại chúng đắp y vào thiền đường, vào Tổ đường lễ Tổ, lên Phật điện đảnh lễ Tam Bảo, sau theo thứ tự đến trước tháp Tổ Khai Sơn đứng theo vị trí. Đốt nhang đèn, thầy Trụ Trì niệm hương xong lễ 3 lạy. Đại chúng xá 3 xá, xong tất cả đi nhiễu tháp 3 vòng. Niệm hương lần nữa, đại chúng đứng theo thứ tự, dẫn khánh, đọc Kinh, trì chú, xướng lễ Tổ sư 3 lạy. Lần lượt đi các tháp cũng làm như vậy. Tại các tháp thầy Trụ Trì không niệm hương mà thầy Giám Viện niệm hương, xướng lễ 3 lạy xong lui vào (không phải đi nhiễu nữa). Nếu như con đường cong queo hoặc gặp mưa, đại chúng tề tựu trước Tổ đường lạy Tổ 9 lạy, chờ trời tạnh ráo hãy tiếp tục hành lễ. Hay chọn ngày khác hẳn lễ thế, tuy phải cho kiểm điểm cây nhánh rơi rớt, bùn đất, đường đi tới tháp… có hư hỏng gì không.

1.12     Thiết Đặt Cúng Dường

Tiết Thanh Minh thường là tháng 3 âm lịch, đúng ngày hoặc trước đó một ngày, buổi tối cúng tiên thường, sắp thức ăn cúng chưng bày ra bên trái. Vị Khai Sơn bổn tự là lão Tổ thượng…hạ…thiền sư; kế tiếp là các bực tôn sư kế thừa Tổ đức và qua các đời chư vị trụ trì. Trên thiếp vị: chính giữa viết dòng như trên, 2 bên ghi phương danh các bậc tôn sư; phía dưới là các vị Trụ Trì, là thiếp thứ nhứt.

Thiếp thứ 2, chính giữa đề 2 chữ: Bổn tự, 2 bên ghi: tiền hiền hậu triết chư tôn đức hữu công giác linh chi vị; và bên trái: chư vị kế vãng khai lai kế thừa Tổ nghiệp chư vị giác linh chi vị.

Thiếp thứ 3 ghi: bổn tự liệt vị tôn đức hữu công, bên phải ghi: tiên vong hậu hóa chư vị tỳ kheo; bên trái: chư Sa Di hậu bối giác linh chư vị.

Thiếp thứ 4 ghi: chư tôn sư đồng bổn tự, chư sư thế độ, phú pháp bên phải, tam sư: đàn đầu Hòa Thượng, Yết Ma, giáo thọ sư, bên trái: 7 vị tôn chứng và dẫn thỉnh sư giác linh chi vị.

Thiếp thứ 5 ghi: bổn tự nhất phái từ lâu xa về trước đến nay môn nhơn pháp quyến, và thầy thế độ cùng chư quyến thuộc giác linh chi vị.

Thiếp thứ 6 ghi: hiện tại cùng ở chung, đại chúng tỳ kheo mỗi thầy đều có song thân: nam công xử sĩ, nữ thị phụ nhơn chi vị.

Thiếp thứ 7 ghi: bổn tự quý vị ra công của, quý vị cúng đất đai, quý vị quyên góp lập chùa, hết thảy đàn na; nam công xử sĩ, nữ thị phụ nhơn chi vị.

Thiếp thứ 8 ghi: bổn tự khai sơn từ xưa đến nay ở chốn tối tăm thọ giới quy y đệ tử tại gia cùng chư vị hộ pháp: nam công xử sĩ, nữ thị phụ nhơn (vợ các quan) chi vị.

Thiếp thứ 9 ghi: bổn tự địa chủ, khác tánh tiên linh, tiền hậu, viễn cận cao lân: nam công xử sĩ, nữ thị phụ nhơn chi vị.

Thiếp thứ 10 ghi: bổn tự cận sự, từ trước đến nay, những vị tịnh nhơn, chấp lao phục dịch chư phương xử sĩ chi vị.

Trở lên 10 thiếp vị từ số 6 đến 9 thích hợp cho nam nữ chân linh hữu công với chùa, cũng thích hợp cho 2 giới tại gia hoặc xuất gia ngày đại lễ. Sau đây là phần phụ lá sớ:

Lại vì đấng đại sĩ xuất thế, rộng mở các hội âm dương. A Nan thỉnh giáo khai mở pháp cam lồ, trời, người, quỉ, thú hàm đủ trong đó được siêu thăng. Tôn thân chư vị xuất gia hướng về đây gội nhuần ân giải thoát.

Phật lịch… Úc Đại Lợi… (thành phố)... ngày… tháng… năm… chùa… Thừa Thích Ca Như Lai di giáo vâng hành, chính nay giỗ Tổ pháp diên, đệ tử sa môn...nay y bổn tự mỗi năm vào tiết Thanh Minh tươi đẹp thiết lễ phổ tiến cúng hậu duệ Tổ. Trụ Trì, sa môn… Giám viện tỳ kheo… ở chùa cùng chúng tăng tất cả. Hôm nay chí tâm niệm hương đảnh lễ, quy mệnh Hội chủ Du Già Thích Ca Văn Phật, trên hội hiển mật, chư Phật cùng Thánh hiền trên tòa liên hoa, xin cảm thấu cho lòng tỏ bày mà nghĩ tưởng chúng con. Thọ ơn cha sanh mẹ dưỡng sâu dày, nhờ Thầy giúp đỡ, hồng ân của việc hộ thí đã nhiều năm mà hoàn bị tư lương, và đồng thời xin xót thương; mong nhờ nước cam lồ thấm đượm khô khát của u tuyền, thừa ân pháp lạc đều được lên đài sen. Do vậy đáng ghi dấu ngày mấy tháng này nhằm lễ… trước hết tối nay lập đàn như pháp cúng tiến.

Lại nguyện: hóa Phật tới tiếp nghinh giũ lòng từ chiếu giám phóng quang dẫn dắt vô số ngạ quỉ hướng quy về pháp diên bình đẳng, thí thực khắp 6 đường, tứ sanh thọ dụng vô biên cam lồ pháp vị. Tông môn giòng Thích cố chẳng phù hư tiêu hao của tín thí, chóng nhuần lợi lạc, đồng về Tịnh độ, cảm thọ Thánh thai. Hồi hướng công đức này cho kẻ âm siêu thoát, người sống được an lành. Cúi xin Tam Bảo thùy từ chứng minh gia hộ (3 lần).

Tới giờ cúng, chuẩn bị sẵn hương đèn, hoa quả bày biện ngăn nắp. Các pháp sư ở trước đàn cúng thí thực, đốt hương khấn nguyện, niệm danh hiệu Phật tới trước đài cúng cô hồn niệm hương, xướng lễ, tụng chú vãng sanh 3 biến, xong đọc tiếp:

Nam Mô Diện Nhiên Đại Sĩ Bồ Tát (3 lần)

Chấp tay đứng trước tượng đại sĩ bạch lời này:

Cực sáng thanh tịnh dung thông vắng lặng hàm cả hư không, tới lui xem xét thế gian cũng như việc trong mộng. Ngưỡng bạch Diện Nhiên Đại Sĩ thống lãnh pháp giới 6 đường, thống ty mười loại cô hồn, tự tha tiên linh và các quyến thuộc của các vị.

(Pháp sư một lần han hỏi rằng);

Chỉ mong đồng thừa lực Tam Bảo, mỗi người ngộ nhất chân tâm, linh minh không mê muội thọ được pháp vị no đủ trong lúc này. Nghiệp thức buông thả, xa thoát trần lao trong nhiều kiếp, sự lợi ích này mong nhờ thần minh dẫn dắt.

Đọc xong, đại chúng cùng cử tán rằng:

Phật tử cô hồn, chớ ở suối hương (thôn)

Vương theo nước pháp ngộ chân thường

Thẳng tắt tự đảm đương

Phản chiếu hồi quang

Nơi nào chẳng thiên đường.

Tán xong, niệm Phật:

Nam Mô A Di Đà Phật (108 biến).

Xong đi tới niệm hương trước mỗi bàn thờ, đọc câu thán văn trên và quay trở lại trước đàn để cúng thí thực (nghi thức thông thường).

Biện giải: Chương Trụ Trì sau, phần chứng nghĩa thí thực.

Chứng nghĩa ghi rằng: nghĩa của phổ tiến là vì cha mẹ, sư trưởng v.v.. chưa ra khỏi 3 cõi, nên phải sắm sửa đồ cúng tiến vào những dịp lễ Thanh Minh, Rằm tháng 7, theo thế tục mà làm, nhằm mục đích mở thức thần của người quá cố, nhưng đó là ý nghĩa tận hiếu của nhân sinh. Thậm chí như việc cúng tuy không phong phú (thịnh soạn) nhưng cốt là ở sự thanh khiết. Cho nên mới có câu rằng: thờ lúc chết như thờ lúc sống vậy. Khổng Tử nói rằng: “Không phải việc ăn uống mà chí hiếu sao?” Quỉ thần xét luận lời chí hiếu thì tự làm dù tiết chế, cúng tế hẳn đầy đủ mới là biết vậy. Gần đây thấy tăng tục, do người có chỗ không kham nổi cái ăn để cung cấp, là ý của tâm không hiếu kính mà chuốt lấy tội càn rỡ cao ngạo, thật đáng lấy làm buồn thay!

1.13     Quét tháp

Tiết Thanh Minh tại phòng khách, trai đường chùa viết tờ thông cáo dán cho biết ngày quét dọn tháp. Thông cáo viết: ngày mai là lễ Thanh Minh quét tháp. Chư tăng sau khi nghe hiệu lệnh, đắp y chỉnh tề đến trước tháp Tổ để làm lễ và quét dọn.

Thầy Tri Sự phân phối người quét dọn các tháp từ trong ra ngoài cũng như con đường tới tháp. Thầy Tri Khách lên phòng Phương Trượng hỏi thầy Trụ Trì thời giờ, phân định giờ giấc và thông báo cho Duy Na biết lễ tiết, chuẩn bị mọi việc.

Đúng ngày Thanh Minh sau thời Kinh sáng hoàn tất, đại chúng điểm tâm, công tác xong. Khi nghe hiệu lệnh, tất cả tập trung tại Tổ đường lễ Tổ, Thầy Trụ Trì có thể nói sơ về công hạnh Tổ hoặc cắt đặt lau quét tháp. Hòa Thượng Phương Trượng chỉ định việc phải làm. Sắp xếp đồ cúng trên bàn thờ Tổ, bàn thờ chư hương linh đàn na đều bày đồ cúng, hương hoa, đèn nến, thức ăn. (Xem 2 chương đầu, trong điều chấp sự).

Đến giờ hành lễ, đại chúng vân tập lên chánh điện. Thầy Trụ Trì niệm hương (nghi thức xem nghi lễ tháp có đầy đủ), lễ 3 lạy xong. Thầy Trụ Trì cầm chổi quét tháp từ trên chóp đến dưới nền, bỏ chổi, quay lại bàn, tái niệm hương.

Thầy Duy Na cử tán:

Lư hương….Nam Mô Thanh Tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật (3 lần).

Kế tụng Tâm Kinh, chú biến thực, cam lồ thủy, phổ cúng dường… Cúng xong, Thầy Trụ Trì thuyết pháp. Tháp Tổ Khai Sơn và các vị kế thừa, ngoài ra tùy nghi. Thuyết pháp xong, kết thúc hồi hướng. Dẫn khánh tiến ra ngoài cúng tháp. Nghi thức như trên. Sau khi cúng xong, đại chúng phân đều ra thăm các tháp, Thầy Trụ Trì lui về.

Thầy Giám Viện niệm hương, lễ tháp, đại chúng tụng Kinh Di Đà, chú vãng sanh (3 lần), cúng ngọ. Cuối cùng xướng:

Nơi pháp hội liên trì

Có đức Phật A Di

Và Quan Âm, Thế Chí

Rước người lên sen quí

Xin giữ nguyện kiên trì

Cõi trần quyết thoát ly

Nam Mô Tịnh Độ Phẩm Bồ Tát (3 lần).

Đại chúng cùng lạy 3 lạy rồi lui. Ban Kinh sư tới bàn cúng cô hồn tiếp tục cúng thí hoặc tới các tháp Tổ, hoặc một ngày khác, chỉ Thầy Trụ Trì và 2 thầy có phận sự quét tháp và dâng đồ cúng, đại chúng không cần đi. Như chi phái chính hoặc có giới tử hay đệ tử thế độ (xuất gia) từ nơi khác đến tảo tháp, nên tiếp ở phòng khách; hỏi họ tôn ti mối liên hệ, nếu là đệ tử cả của Trụ Trì xử lễ như bậc tôn túc (xem chương Trụ Trì ở sau, điều nói về các bực tôn túc). Nếu như đồng hàng trở xuống thông báo cho Thầy Trụ Trì, thủ khố, Duy Na biết và mời ấn định thời gian theo nghi cúng đầy đủ như nghi tảo tháp có cúng ngọ như trên. Nhưng mời đại chúng cùng tụng kinh, Trụ Trì phụ quét hay chỉ quét một tháp hoặc 2 tháp tùy theo sự thích hợp của cá nhân; hoặc tách riêng đại chúng không phải tụng kinh, hoặc trừ Trụ Trì không dám phiền sự lao nhọc, cũng tạm đủ. Việc lễ các bậc tôn túc tùy nghi sắp xếp, vị tri khách nên hỏi rõ ràng trước (phải cho thật tế nhị việc này).

Chứng nghĩa ghi rằng: lễ tháp, quét dọn tháp đều thích thờitôn kính tổ tiên; thấy đá tháp hư hao, xem xét cây cối suy tàn. Trên do Tổ linh, dưới đặt mối liên hệ thường trụ không thể bỏ lơ là được. Gần đây phần nhiều bỏ việc tảo tháp, chẳng phải chỉ làm mất gốc lại còn là nổi lo tổ ấn khiếm khuyết không còn người nữa. Là đệ tử của Tam Bảo, ta nên cúng kiến chư Tổ chu đáo để mong ân đức Tổ gia hộ tâm thành của hàng hậu bối.

 

Hết quyển 4


 


[1] Bích quán Bà La Môn: người Bà La Môn nhìn vào vách để chỉ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Ngài tới Trung Quốc năm 520 không hội được ý vua LươngVõ Đế, nên tới dãy Tung Sơn tu thiền quán và xoay mặt vô vách chín năm và sau đó đạt thành Sơ tổ Thiền Tông Trung Quốc và là vị Tổ thứ 28 của phái Thiền nói chung.

[2] Ba minh: ba sự sáng suốt: 1. Túc mạng minh: biết rõ tất cả kiếp sống trước của mình và của những người khác; 2. Thiên nhãn minh: mắt thiên biết rõ đời mình và những chúng sanh khác sẽ diễn tiến ra sao; 3. Lậu tận minh: đoạn sạch hết phiền não, đau khổ và mê lầm trong đời sống hiện tại.

[3] Lục thông: 6 phép thần thông: phép thông của thiên nhãn, phép thông của thiên nhỉ, thông đạt tâm kẻ khác, phép thông vận hành (thần túc thông), thông suốt các kiếp trước của mình và sạch hết phiền não trói buộc dù nhỏ nhiệm đến đâu (lậu tận thông).

[4] Tam bạch yết ma: Tăng già hòa hợp chúng làm pháp Bố Tát hay truyền giới đều phải làm phát yết ma hỏi ba lần mới hợp luật và đạo lý. Hỏi lần thứ nhất, hỏi lần thứ hai và hỏi lần thứ ba. Khi hội đồng tăng biết chắc là trong chúng không còn ai có ý kiến khác, tức là tất cả đồng thuận việc mới thành tựu viên mãn.

[5] A Xà Lê: Tàu dịch là giáo thọ tức vị Thầy dạy đạo pháp. Trong đại giới đàn 3 vị ngồI trên cao. vị chính giữa là đàn đầu Hòa Thượng, vị bên phải là Yết Ma A Xà Lê, vị bên trái là Giáo thọ A Xà Lê.

[6] Bát nạn: 8 nạn trong đời sống là: 1. sanh vào cõi địa ngục; 2. sanh trong loài ngạ quỉ; 3. sanh vào loài súc sanh; 4. sanh lên cõi trời Trường Thọ; 5. sanh miền Bắc Cu Lô Châu (giá băng suốt quanh năm không có ánh mặt trời); 6. sanh trước Phật hay sanh sau Phật cũng đều bất hạnh; 7. giỏi luận biện bác làu thông theo thế trí; 8. đui (mù), điếc, ngọng, câm.

 

Thích Bảo Lạc dịch

--- o0o ---

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: nbsp

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Giới Thiệu:

    Chùa Sắc Tứ Khải Đoan là ngôi chùa đầu tiên của tổ chức Phật Giáo có mặt tại Đaklak, được xây dựng vào năm 1951. chùa tọa lạc trên khu đất rộng 7 mẫu 8 sào 28m2, do Đoan Huy Hòang Thái Hậu Hòang Thị Cúc hiến cúng cho Tổng Hội Phật Giáo trung phần.

Thông báo

Số Lượng truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 72

Máy chủ tìm kiếm : 5

Khách viếng thăm : 67


Hôm nayHôm nay : 4341

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 351990

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 30008705


Ảnh đẹp