Lược giải những pháp số căn bản: (Phần 3)

Thứ năm - 25/08/2011 07:18
Lược giải những pháp số căn bản: (Phần 3)

Lược giải những pháp số căn bản: (Phần 3)

1. Vàng (kim, hay hoàng kim): Theo luận Đại Trí Độ, vàng là do từ cát đá, đồng đỏ trong núi sinh ra. Vàng có bốn đặc điểm: màu sắc không biến đổi; thể chất không ô nhiễm; thay đổi hình trạng (từ vòng sang xuyến, sang tượng cốt, chén đĩa, v.v...) không bị trở ngại; làm cho người ta trở nên giàu sang. Bốn đặc điểm này cũng có thể dùng làm tỉ dụ cho bốn đức Thường, Tịnh, Ngã và Lạc của pháp thân Phật. Cũng từ những ý nghĩa đó, thân của Phật tốt đẹp trang nghiêm vi diệu, nên được gọi là “kim thân”.

 


SỐ 7

BẢY BÁU (thất bảo)

 

1. Vàng (kim, hay hoàng kim): Theo luận Đại Trí Độ, vàng là do từ cát đá, đồng đỏ trong núi sinh ra. Vàng có bốn đặc điểm: màu sắc không biến đổi; thể chất không ô nhiễm; thay đổi hình trạng (từ vòng sang xuyến, sang tượng cốt, chén đĩa, v.v...) không bị trở ngại; làm cho người ta trở nên giàu sang. Bốn đặc điểm này cũng có thể dùng làm tỉ dụ cho bốn đức Thường, Tịnh, Ngã và Lạc của pháp thân Phật. Cũng từ những ý nghĩa đó, thân của Phật tốt đẹp trang nghiêm vi diệu, nên được gọi là “kim thân”.

2. Bạc (ngân, hay bạch ngân): Theo luận Đại Trí Độ, bạc là do từ đá cháy sinh ra. Vàng và bạc là hai loại quí kim mà mọi người đều biết; riêng trong Phật giáo, đôi khi chúng được dùng để chỉ cho các chốn già lam, như “kim địa”, “ngân địa”, v.v...

3. Lưu-li (hay tì-lưu-li): một loại đá ngọc màu xanh, ánh sáng trong suốt, là thần vật sinh từ thiên nhiên, không phải do người làm được. Tuy nhiên, cũng có thứ ngọc lưu-li do người luyện thành, nhưng đó chỉ là loại ngọc giả mà thôi. Ngày xưa nước Tần (Trung-quốc) nổi tiếng có nhiều loại ngọc thiên nhiên; riêng ngọc lưu-li này cũng có đến mười loại (màu): đỏ, hồng, trắng, đen, tím, vàng, xanh, lam nhạt, da trời, và lá cây.

4. Pha-lê (tức thủy-tinh): Theo luận Đại Trí Độ, hai loại lưu-li và pha-lê là do từ trong các hang núi sinh ra. Giá tuyết đóng băng, trải qua ngàn năm thì thành ngọc, gọi là pha-lê (nghĩa là ngọc nước). Loại thủy tinh ngày nay thường dùng làm các vật gia dụng như li, chén, bình cắm hoa, v.v..., là do con người lấy cát chế biến ra, không phải là ngọc pha-lê thiên nhiên nói trên.

5. Xa-cừ: một loại ốc biển rất lớn, vỏ dầy và cứng. Mặt ngoài của vỏ có nhiều lằn sâu như khắc, mặt trong thì trắng, sáng như ngọc; cho nên được xem là một loại đá ngọc, và được chế biến thành các vật trang sức quí giá. Cũng có người gọi loại san-hô trắng là xa-cừ. Nhưng, từ điển Từ Nguyên còn dẫn ở sách Nghệ Văn Loại Tụ của Trung-quốc, có điều mục nói rằng, xa-cừ là một loại ngọc quí ở Tây-vực; và đó mới là một trong bảy món báu đề cập ở đây.

6. Xích-châu (hay xích-chân-châu): là một loại ngọc màu đỏ, do một loài sâu đỏ sinh ra. Theo luận Đại Trí Độ, loại chân-châu này cực kì quí báu, không phải là san-hô. Loại chân-châu thường thì có màu xám hoặc xám nhạt, nhưng loại xích-chân-châu thì có ửng màu đỏ; nếu được loại màu thuần đỏ thì quí giá vô cùng, trên đời hiếm thấy.

7. Mã-não: là loại ngọc quí màu xanh biếc, rất sáng; khác với loại mã-não thường thấy, là loại đá có vân đỏ.

 

BẢY CÁI THẤY ĐIÊN ĐẢO (thất điên đảo)

“Điên đảo”, nói tắt là “đảo”, có nghĩa là đảo lộn sự thật, trái ngược với sự thật. Người phàm phu vì không có trí tuệ nên đối với mọi sự lí ở đời, luôn luôn có 7 tư tưởng điên đảo như sau:

1. Tưởng đảo: tư tưởng điên đảo, ví dụ, vạn pháp do duyên sinh mà cho là do một vị thượng đế sáng tạo, v.v...

2. Kiến đảo: tức là tà kiến, như không tin nhân quả nghiệp báo, mà tin vào quyền năng của ông thần này, bà chúa kia, v.v...

3. Tâm đảo: tức vọng tâm, đối với sự việc gì cũng nghĩ quấy, thấy biết sai lạc, rồi khởi niệm tham lam, ganh tị, sân hận, oán thù, v.v...

4. Thường đảo: vạn pháp ở thế gian là vô thường mà cho là thường hằng, sinh tâm bám chặt không rời.

5. Lạc đảo: Thế gian là một biển khổ mênh mông, nhưng cứ cho là vui sướng, cho nên luôn luôn tham đắm, đeo đuổi, để rồi gây bao tội lỗi mà không biết hồi tâm.

6. Tịnh đảo: Thế gian đầy dẫy phiền não cấu uế, mọi sự đều bất tịnh, nhưng cứ cho là tịnh, rồi mải mê tham cầu bám giữ, gây bao điều ác, ưu phiền cho mình và mọi người, mà không biết hướng thiện.

7. Ngã đảo: Tự thân và vạn pháp ở thế gian đều là vô ngã, nhưng cứ cho là có ngã chân thật, cho nên tham cầu, giữ chặt, ích kỉ, ngạo mạn, không biết buông xả, không biết vì người làm điều lợi ích, v.v...

 

BẢY CHÚNG (thất chúng)

“Bảy chúng” tức 7 loại đệ tử (kể cả xuất gia và tại gia) làm thành giáo đoàn của Phật:

1. Tì kheo: nam giới xuất gia đã đủ 20 tuổi.

2. Tì kheo ni: nữ giới xuất gia đã đủ 20 tuổi.

3. Sa di: nam giới xuất gia dưới 20 tuổi.

4. Sa di ni: nữ giới xuất gia dưới 20 tuổi.

5. Thức xoa ma na: tên gọi vị sa di ni trong thời gian chuẩn bị (2 năm) để trở thành tì kheo ni.

6. Ưu bà tắc: nam cư sĩ tại gia.

7. Ưu bà di: nữ cư sĩ tại gia.

 

BẢY CHUYỂN THỨC (thất chuyển thức)

Theo Duy Thức Học, trong tám thức (sẽ trình bày trong mục “Tám Thức” ở sau) thì thức a-lại-da là “căn bản thức”; bảy thức còn lại là mạt-na thức, ý thức, nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức và thân thức, đều do căn bản thức chuyển biến và biểu hiện ra, cho nên bảy thức này được gọi là “chuyển thức”.

 

BẢY ĐIỀU KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI (thất pháp bất khả tị)

1. Sinh ra đời là điều không thể tránh khỏi (sinh bất khả tị). Kiếp trước đã tạo nghiệp nhân (dù thiện, dù bất thiện) thì kiếp này phải sinh ra đời để nhận lấy kết quả của nghiệp, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.

2. Già nua là điều không thể tránh khỏi (lão bất khả tị). Thân này đã được sinh ra thì phải có lúc già yếu, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.

3. Bệnh là điều không thể tránh khỏi (bệnh bất khả tị). Thân này đã được sinh ra thì phải có lúc bị đau bệnh, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.

4. Chết là điều không thể tránh khỏi (tử bất khả tị). Đã có sinh thì phải có tử, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.

5. Quả báo của tội lỗi là điều không thể tránh khỏi (tội bất khả tị). Đã gây ra những nghiệp nhân tội lỗi thì phải nhận chịu những quả báo đau khổ, trầm luân, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.

6. Quả báo của thiện nghiệp là điều không thể tránh khỏi (phúc bất khả tị). Đã tạo ra những nghiệp nhân tốt lành thì phải hưởng được những quả báo an vui, hạnh phúc, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.

7. Duyên sinh là điều không thể tránh khỏi (nhân duyên bất khả tị). Tất cả mọi hiện tượng đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh thành, tất cả những sự việc như tốt, xấu, họa, phúc, giàu, nghèo, sống lâu, chết yểu v.v... cũng không ngoài đạo lí ấy, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.

“Bảy điều không thể tránh khỏi” trên đây là những sự thật của đời sống, hành giả có thể dùng để thực tập như là những đề tài quán chiếu trong lúc thiền tập. Các điều số 1, số 2, số 3 và số 4 sẽ giúp cho hành giả đánh tan được mọi nỗi lo âu, sợ hãi, chán nản, thất vọng khi đối diện trước những khổ đau của kiếp sống; các điều số 5 và số 6 sẽ giúp cho hành giả thấy rõ hậu quả của những hành động của chính mình, đánh tan mọi hoài nghi, thắc mắc để vững chí, kiên trì (tinh tấn) trong việc chuyển hóa thân tâm; điều số 7 giúp hành giả phá vỡ màn vô minh từ lâu đã từng che khuất trí tuệ, thấy rõ chân tướng của thực tại vạn hữu. Một cách tóm tắt, khi đã ngộ được 7 điều trên đây thì hành giả tức khắc vượt thoát sinh tử.

 

BẢY ĐỨC PHẬT ĐỜI QUÁ KHỨ (thất Phật - quá khứ thất Phật))

 7 đức Phật đời quá khứ gồm có đức Phật Thích Ca Mâu Ni và 6 đức Phật từng thị hiện trong thế gian trước đó: Phật Tì Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tì Xá Phù, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, và Phật Ca Diếp. Mỗi đức Phật đều truyền lại một bài kệ, trong đó, bài kệ của đức Phật Ca Diếp là được thông dụng nhất; kinh Tăng Nhất A Hàm (Hán văn) ghi lại bài kệ ấy như sau:

Chư ác mạc tát (không làm các việc ác)

Chư thiện phụng hành (luôn làm các việc lành)

Tự tịnh kì ý (giữ tâm ý trong sạch)

Thị chư Phật giáo (đó là lời dạy của chư Phật)

 

BẢY LOẠI LẠY PHẬT (thất chủng lễ Phật)

1. Lạy Phật với tâm ngã mạn (ngã mạn lễ). Người lạy Phật, thấy người ta lạy thì mình cũng lạy, thân tuy lễ lạy nhưng trong lòng miễn cưỡng, tự cho mình là tài giỏi, không cung kính chí thành, không cảm nhận được ân đức sâu dầy của Phật, không xem Phật là bậc Đạo Sư cao cả của mình.

2. Lạy Phật với tâm cầu danh (cầu danh lễ). Người lạy Phật chỉ vì muốn người ta khen ngợi mình là người siêng năng tu hành, chứ thực sự trong tâm không phải vì tưởng nhớ ân sâu của Phật, không vì thành tâm cúng dường mà lạy Phật.

3. Lạy Phật bằng cả thân tâm (thân tâm lễ). Người lạy Phật, miệng niệm danh hiệu Phật, tâm quán tưởng hình tướng trang nghiêm tốt đẹp của Phật, không có tạp niệm nào khác, thân tâm đều chí thành tha thiết, cung kính cúng dường.

4. Lạy Phật bằng trí tuệ thanh tịnh (phát trí thanh tịnh lễ). Người lạy Phật, tâm tuệ sáng suốt, đạt cảnh giới của Phật, trong ngoài thanh tịnh, thông suốt không chướng ngại; lạy một đức Phật tức lạy tất cả chư Phật, lạy tất cả chư Phật tức lạy một đức Phật; cho nên chỉ một lạy mà thông khắp pháp giới. Lạy Phật, lạy Pháp, lạy Tăng đều như vậy.

5. Lạy Phật với thân tâm thâm nhập khắp pháp giới (biến nhập pháp giới lễ). Người lạy Phật, quán tưởng thân tâm mình xưa nay vốn không xa rời pháp giới, chư Phật vốn không xa rời tâm mình, tâm mình vốn không xa rời chư Phật, tánh tướng bình đẳng, không tăng không giảm. Nay lạy một đức Phật, tức thông khắp chư Phật. Quán tưởng như thế thì công đức qui về pháp giới, mà diệu dụng vô biên.

6. Lạy Phật tánh nơi chính mình (chánh quán tu thành lễ). Người lạy Phật, nhiếp tâm chánh niệm, đối trước thân Phật, cũng tức là lễ bái Phật tánh nơi chính mình.

7. Lạy Phật thật tướng bình đẳng (thật tướng bình đẳng lễ). Người lạy Phật, tâm hoàn toàn bình đẳng, không thấy có Phật và có mình khác nhau, phàm và thánh là nhất như, thể dụng không hai.

Trong 7 loại lạy Phật ở trên, 2 loại đầu là lạy Phật với tâm bất chánh, gây lỗi lầm, người tu học Phật không nên lạy Phật cách như thế; còn 5 loại sau là những cách lạy Phật chân chính, nên tu tập thường xuyên, sẽ tạo được công đức vô biên.

 

BẢY LOẠI TÂM SÁM HỐI (thất chủng sám hối tâm)

1. Phát sinh tâm hổ thẹn (sinh đại tàm quí tâm). Nguyên đức Thế Tôn và chúng ta đều là phàm phu, nhưng đức Thế Tôn thì đã thành Phật từ lâu, còn chúng ta thì đến bây giờ vẫn còn trầm luân trong biển sinh tử, chưa biết đến bao giờ mới thoát khỏi! Nghĩ như thế mà sinh tâm hổ thẹn, và phát lồ sám hối.

2. Phát sinh tâm sợ sệt (sinh khủng bố tâm). Hạng phàm phu chúng ta, thân ngữ ý thường tạo ác nghiệp, gây tội lỗi triền miên, nhân đó mà sau khi mạng chung, sẽ phải đọa lạc vào các đường dữ, như Địa-ngục, Ngạ-quỉ, hoặc Súc-sinh, nhận chịu quả báo đau khổ cùng cực. Nghĩ như thế mà sinh tâm sợ sệt, và phát lồ sám hối.

3. Phát sinh tâm nhàm chán rời bỏ (sinh yếm li tâm). Chúng ta lưu chuyển trong biển sinh tử, hư giả không chân thật, giống như bọt nước vừa nổi lên liền tiêu mất. Thân này là tập hợp của mọi điều khổ đau, gom chứa toàn những vật bất tịnh. Nghĩ như thế mà sinh tâm chán bỏ, và phát lồ sám hối.

4. Phát sinh tâm bồ đề (phát bồ đề tâm). Muốn thành tựu thân tướng Như Lai, chúng ta phải phát lồ sám hối tội chướng từ bao đời, rồi phát tâm bồ đề thệ nguyện cứu độ chúng sinh, dù phải bỏ cả tài sản thân mạng cũng không luyến tiếc.

5. Phát tâm bình đẳng (oán thân bình đẳng tâm). Tâm ý từ lâu vốn phân biệt chấp trước, hễ khởi niệm liền có nhân có ngã, đối xử thì coi trọng người thân mà khinh ghét kẻ oán. Nay phát lồ sám hối, nguyện phát khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sinh, cứu độ một cách bình đẳng, không phân biệt kẻ oán người thân, không dính mắc tướng nhân tướng ngã.

6. Tâm luôn ghi nhớ báo ân Phật (niệm báo Phật ân tâm). Đức Thế Tôn đã trải qua vô lượng kiếp tu hành khổ hạnh, chỉ vì tâm từ bi muốn cứu độ chúng ta. Ân đức ấy thật khó báo đáp. Vậy, chúng ta trong đời này phải luôn luôn nghĩ nhớ ân đức ấy của Phật; và cố gắng báo đáp ơn Phật bằng cách chí thành sám hối tội chướng sâu dầy, phát tâm dũng mãnh tinh tấn tu tập, cứu độ chúng sinh đồng thành Chánh giác.

7. Quán chiếu bản tánh của tội lỗi là không (quán tội tánh không). Bản tánh của tội lỗi vốn không, không có thật thể, chỉ là do nhân duyên điên đảo mà phát sinh. Vì vậy, công phu sám hối ở giai đoạn này là dùng trí tuệ bát nhã quán chiếu, để thấy rõ tội lỗi chỉ là duyên sinh, bản tánh của chúng xưa nay vốn không tịch, không có cái gì gọi là “tội”. Tâm vọng động đã tiêu trừ thì tội lỗi cũng không do đâu mà sinh khởi. Đó là sự sám hối chân thật nhất.

 

BẢY NGUYÊN TỐ (thất đại)

 Bảy nguyên tố gồm đất (địa đại), nước (thủy đại)), lửa (hỏa đại), gió (phong đại), hư không (không đại), tánh thấy biết (kiến đại) tánh phân biệt (thức đại).

Trong mục “Bốn Nguyên Tố” (tứ đại) ở trước, các nguyên tố địa, thủy, hỏa, phong, không, và thức, đã được trình bày rõ ràng, ở đây xin nói thêm về “kiến đại”. Chữ “kiến” là một thuật ngữ Phật học, trong các bộ Luận như Đại Tì Bà Sa, Câu Xá v.v..., nó được giải thích là nhìn thấy, suy lường, chấp trước; trong Kinh Lăng Nghiêm, nó có nghĩa là tánh thấy của nhãn căn, vì tánh của sắc pháp phủ trùm pháp giới nên tánh thấy này cũng phủ trùm pháp giới. Đó là ý nghĩa của “kiến đại”.

7 nguyên tố (thất đại) là thể tánh của vạn pháp (gồm sắc pháp và tâm pháp). Đất, nước, lửa, gió gọi là “bốn đại”, là thể của sắc pháp; vạn pháp sinh thành đều không ra ngoài bốn nguyên tố này. Bốn nguyên tố ấy lại nương nơi hư không (không đại) mà được kiến lập, nương nơi tánh thấy (kiến đại) mà được nhận biết, nương nơi tánh phân biệt (thức đại) mà được hiểu biết rõ ràng. Trong 7 nguyên tố đó thì 5 nguyên tố đầu là đất, nước, lửa, gió và hư không thuộc về sắc pháp; 2 nguyên tố sau là tánh thấy và tánh phân biệt thuộc về tâm pháp. Các loài hữu tình thì đầy đủ cả 7 nguyên tố; các loài vô tình chỉ có 5 nguyên tố đầu mà thôi.

Nếu nhìn phối hợp với “18 khu vực” (thập bát giới – xin xem mục “Mười Tám Khu Vực” ở sau), thì 5 nguyên tố đầu tương đương với 6 cảnh; nguyên tố thứ sáu, kiến đại, tương đương với 6 căn; và nguyên tố thứ bảy, thức đại, tương đương với 6 thức.

 

BẢY PHÁP TÀI (thất pháp tài - thất thánh tài)

“Pháp tài” là sự giàu có về tâm linh (khác với sự giàu có về vật chất), là của cải, vốn liếng tinh thần mà hành giả luôn luôn dùng làm hành trang trên suốt con đường tu học và phụng sự chúng sinh, cho đến khi đạt được quả vị giác ngộ. Có bảy thứ pháp tài:

1. Đức tin (tín tài).

Đức tin là loại của cải căn bản và cần thiết trước nhất mà hành giả phải có. Nó chính là lương thực để nuôi sống hành giả. Đức tin ở đây không phải là thứ tín ngưỡng mù quáng, mà là niềm tin tưởng có được do sự quán sát, phán đoán, nhận định và thực nghiệm; cho nên đã có đức tin thì sẽ có quyết định hành động, không có đức tin thì sẽ không có gì cả.

2. Chí kiên trì (tinh tấn tài).

Ngọn lửa nung hoài thì hạt bắp trong nồi sẽ bung ra; ánh sáng mặt trời chiếu rọi hoài thì cái hoa phải nở. Chí kiên trì (hay đức tinh tấn) đối với người tu học cũng giống như ngọn lửa đối với nồi bắp hay ánh sáng mặt trời đối với bông hoa, là năng lượng chính yếu mà nếu được nung nấu một cách bền bỉ, liên tục thì bông hoa giác ngộ nơi hành giả, một ngày nào đó cũng sẽ nở ra rạng rỡ.

3. Giới luật (giới tài).

Nếu đức tin là lương thực thì giới luật vừa là sư trưởng, vừa là thiện tri thức, và cũng vừa là y phục quí báu nhất của người tu học. Nó ngăn ngừa mọi lỗi lầm về cả thân, khẩu và ý; và do đó, nó còn là chiếc chìa khóa để cho hành giả dùng mở cánh cửa giác ngộ. (Xin xem lại ý nghĩa và tính chất của “Giới” trong mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở trước.)

4. Tâm hổ thẹn (tàm quí tài).

Biết hổ thẹn đối với những lỗi lầm của chính mình (tàm), và biết hổ thẹn khi thấy mình không siêng năng, trong sạch, tỉnh thức bằng người khác (quí), đó là hai món đồ trang sức đẹp đẽ nhất của người tu học. Trong khi tính tự mãn, kiêu ngạo sẽ đưa hành giả xa rời dần quả vị giác ngộ, thì tâm biết hổ thẹn sẽ đưa hành giả ngày càng đến gần với

quả vị giác ngộ. Kinh Di Giáo dạy: “Tâm biết hổ thẹn là món đồ trang sức đẹp nhất trong các món đồ trang sức. Cũng như cái móc sắt, tâm biết hổ thẹn có thể chế ngự tất cả mọi lầm lỗi của con người. Bởi vậy, người tu học lúc nào cũng nên biết hổ thẹn.”

5. Lắng nghe (văn tài).

Lắng nghe là nghe trong tỉnh thức. Lắng nghe (văn), rồi suy gẫm, quán chiếu (tư) về điều mình nghe, và đem áp dụng những điều ấy vào nếp sinh hoạt hằng ngày (tu), đó là ba phương pháp tu học có năng lực làm phát sinh trí tuệ (tam tuệ học). “Lắng nghe” ở đây phải được coi là giác quan của người tu học. Hành giả sử dụng các giác quan của mình một cách tinh thục trong đời sống thì sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc cho chính mình và mọi người, mọi loài. Vì vậy, biết lắng nghe cũng là một trong những hành trang cần thiết của hành giả trên đường đi đến giác ngộ.

6. Buông bỏ (xả tài).

Buông bỏ là tiếng dùng để diễn tả đức độ của người khi đạt được tâm bình đẳng, nghĩa là đã dứt bỏ được những “sở tri”, những thành kiến, cố chấp, phân biệt tốt xấu, bạn thù, thương ghét v.v.... Có đức xả thì tâm từ bi trở nên vô cùng rộng lớn; do đó, sự thực hành bố thí của hành giả sẽ vô cùng lợi lạc và không biên giới. Vì vậy, “xả” chính là thứ phương tiện chuyên chở tốt nhất để đưa hành giả đi khắp các nẻo đường phụng sự xã hội, và cuối cùng là đến quả vị giác ngộ. (Xin xem lại mục “Bốn Tấm Lòng Rộng Lớn” ở trước.)

7. Định và Tuệ (định tuệ tài).

Làm cho sự lãng quên, tâm loạn động dừng lại (chỉ) thì định lực (định) phát sinh. Quán chiếu để thấy rõ (quán) chân tướng thực tại thì trí tuệ (tuệ) phát sinh. Nói cách khác, “định tuệ” là kết quả có được từ “chỉ quán”; cho nên chỉ quán và định tuệ lúc nào cũng không rời nhau, và trở nên các thành phần chủ yếu của giác ngộ. Hay có thể nói một cách chính xác hơn, định tuệ chính là bản thân của giác ngộ. Hành giả có thể tu tập hết mọi phương pháp, nhưng nếu không có định tuệ thì quả vị giác ngộ vẫn là một cái gì hết sức xa vời, không làm sao với tới được. Vậy, định tuệ phải được coi chính là hơi thở của hành giả. Hành giả nắm giữ định tuệ như nắm giữ hơi thở của mình.

Bảy thứ pháp tài trên đây cũng được coi là bảy thứ thánh tài, tức là bảy thứ của cải của các thánh nhân, được liệt kê ở nhiều kinh, và có khác nhau chút ít. Theo các kinh Bảo Tích và Niết Bàn, chúng gồm có: tín, giới, văn, tàm, quí, xả, và tuệ (tàm quí được chia làm hai, và không có tấn). Kinh Pháp Cú: tín, giới, tàm, quí, văn, bố thí, và tuệ (tàm quí được chia làm hai, không có tấn và xả, thêm bố thí). Kinh Báo Ân: tín, tấn, giới, tàm quí, văn xả, nhẫn nhục, và định tuệ (văn và xả hợp làm một, thêm nhẫn nhục).

 

BẢY PHÉP BẤT THỐI (thất bất thối pháp)

“Các vị khất sĩ! Như Lai sẽ chỉ dạy cho các vị bảy phương pháp để giữ gìn cho chánh pháp và giáo đoàn không bị suy thoái. Các vị hãy lắng nghe.

“Thứ nhất là các vị nên thường xuyên gặp mặt nhau trong những buổi họp mặt đông đủ để học hỏi và luận bàn về chánh pháp.

“Thứ hai là các vị tới với nhau trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết, và chia tay nhau trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết.

“Thứ ba là cùng tôn trọng và sống theo giới luật và pháp chế một khi những giới luật và pháp chế ấy đã được ban hành.

“Thứ tư là biết tôn trọng và vâng lời các bậc trưởng lão có đạo đức và kinh nghiệm trong giáo đoàn.

“Thứ năm là sống một nếp sống thanh đạm và giản dị, đừng để bị lôi cuốn vào tham dục.

“Thứ sáu là biết quí đời sống tĩnh mặc.

“Thứ bảy là biết an trú trong chánh niệm để thực hiện an lạc và giải thoát, làm chỗ nương tựa cho các bạn đồng tu.

“Này các vị khất sĩ! Chừng nào mà các vị còn thực hiện được bảy điều ấy – gọi là bảy phép bất thối, thì đạo pháp còn hưng thịnh và giáo đoàn không bị suy thoái. Không một yếu tố nào bên ngoài có thể phá hoại được giáo đoàn. Chỉ có những phần tử từ bên trong giáo đoàn mới có thể làm cho giáo đoàn tan rã mà thôi. Các vị khất sĩ! Khi con sư tử chúa của mọi loài ở chốn sơn lâm ngã quị, không có một loài nào dám đến ăn thịt nó; chỉ có những con trùng phát sinh từ bên trong thân thể của sư tử mới ăn thịt được sư tử mà thôi. Các vị hãy bảo vệ chánh pháp bằng cách sống theo bảy phép bất thối, đừng bao giờ tự biến mình thành những con trùng trong thân thể của con sư tử.”

(Trích trong Đường Xưa Mây Trắng của Thích Nhất Hạnh, San Jose, Lá Bối in lần thứ hai - 1992, trang 546 - 547. Hai câu được in chữ đậm trong đoạn trên là chủ ý của soạn giả HC.)

 

BẢY PHÉP HÒA GIẢI (thất diệt tránh pháp)

“Diệt tránh” nghĩa là dập tắt sự tranh cãi, xung đột. Trong đời sống tập thể, nhiều khi có những ý kiến bất đồng về một vấn đề, khiến đưa tới xích mích, tranh cãi, làm mất đi cái không khí hòa hợp giữa đại chúng. Sự tranh cãi thường xảy ra khi hai hoặc nhiều người, trong lúc học tập chung, đã có những kiến giải khác nhau về cùng một vấn đề, hoặc không đồng ý với nhau về việc thực thi một biện pháp, một kế hoạch, và nhất là khi phải phán quyết hành vi của một vị nào đó là có tội hay vô tội, hoặc tội nặng hay tội nhẹ, hoặc người phạm tội không chịu nhận tội v.v... Để tránh xảy ra những trường hợp làm mất hòa khí như vậy, đại chúng thường áp dụng bảy biện pháp dập tắt sự tranh cãi (thất diệt tránh pháp) nhằm đem lại không khí hòa hợp cho tập thể. Tuy bảy biện pháp này thuộc về giới luật tì kheo và tì kheo ni, nhưng vì sự ích lợi rộng rãi và thiết thực, chúng có thể được đem áp dụng trong bất cứ một tăng thân tu học nào. Bảy biện pháp đó là:

1. Biện pháp “hiện tiền”: Hai bên bất đồng ý kiến được mời đối diện trực tiếp tranh luận trước đại chúng, dùng kinh luận hoặc giới luật đối chiếu để soi rõ vấn đề; từ đó tìm ra các lẽ phải trái, và cùng nhau chấm dứt tranh cãi.

2. Biện pháp “ức niệm”: Cho nhân chứng trần thuật những sự việc đã tuần tự xảy ra, cùng những nguyên cớ nào đã đưa đến sự xung đột hiện tại; từ đó tìm ra lẽ phải trái để hòa giải xung đột.

3. Biện pháp “bất si”: Nếu có chứng cớ rằng, hành động trái phép đã xảy ra khi đương sự đang ở trong tình trạng tâm ý cuồng loạn, hoặc đã hành động một cách không có ý thức, hoặc đương sự không ngoan cố ngụy biện để tự bào chữa trong lúc luận tội, thì sẽ không xảy ra sự tranh cãi.

4. Biện pháp “tự ngôn”: Không dùng uy lực của đại chúng để áp đảo tinh thần đương sự, nhưng tạo điều kiện thuận lợi để cho đương sự tự phản tỉnh và thành thực bộc lộ sự sai quấy của mình. Điều này hết sức quan trọng vì nó ngăn chận được sự tranh luận ngay từ lúc đầu.

5. Biện pháp “đa ngữ”: Nếu sự tranh luận đã kéo dài mà không đưa đến kết quả nào thì đại chúng có thể dùng phương pháp biểu quyết (hoặc công khai, hoặc bỏ phiếu kín); ý kiến của bên đa số sẽ là ý kiến quyết định.

6. Biện pháp “tội xử sở”: Nếu một đương sự quả thật có hành động lầm lỗi mà cứ chối cãi quanh co, không chịu nhận lỗi, thì đại chúng có thể dùng phương pháp “yết ma”(1), hỏi ba lần, nếu trong đại chúng không có ai phản đối thì hình phạt sẽ đương nhiên có hiệu lực đối với đương sự.

7. Biện pháp “thảo phú địa”: Nếu sự việc quá nghiêm trọng và phức tạp mà đại chúng thấy lúng túng, không quyết định, thì đại chúng có thể trình sự việc ấy lên quí vị cao cấp trong hàng giáo phẩm của tu viện hoặc hội đồng giáo hội để nhờ phán quyết.

Trong khi áp dụng, không nhất thiết là phải dùng hết cả bảy biện pháp này cùng một lúc, nhưng tùy mỗi trường hợp, đại chúng có thể dùng một, hoặc hai, hoặc nhiều hơn, miễn sao chấm dứt được tranh cãi và thực hiện được sự hòa giải, đem lại không khí yên tĩnh, hòa hợp trong đại chúng.

(1) “Yết ma” là một thuật ngữ đặc biệt dùng trong phạm vi giới luật, dịch là “tác nghiệp”, nghĩa là những sực việc đã làm. Đó là một loại nghi thức có văn tuyên cáo khi làm các nghiệp sự liên quan tới giới luật như thọ giới, bố tát, sám hối v.v... Nhờ có sự tuyên cáo rõ ràng ấy mà nghi thức được thành tựu. Nội dung của nghi thức yết ma phải gồm đủ 4 pháp (yết ma tứ pháp): 1. Pháp, tức tác pháp yết ma được cử hành đúng pháp; 2. Sự, tức tác pháp yết ma được cử hành vì có liên quan đến những sự thật như phạm tội, sám hối v.v...; 3. Nhân, tức người có mặt, tùy theo sự việc mà số người tham dự được qui định có con số nhất định; 4. Giới, tức địa giới, nơi chỗ được chọn để tiến hành nghi thức yết ma.

 

BẢY YẾU TỐ GIÁC NGỘ (thất giác chi - thất giác ý - thất giác phần - thất bồ đề phần)

Đây là bảy yếu tố tạo nên quả vị giác ngộ. Theo kinh Niết Bàn, bảy yếu tố này gồm có:

1. Chánh niệm (niệm giác phần): thường xuyên an trú trong chánh niệm.

2. Chọn lựa pháp môn (trạch pháp giác phần - phân biệt giác phần): Chữ “trạch” ở đây có nghĩa là tư duy và khảo sát. Mọi sự việc ở đời đều có những sự việc thiện và những sự việc bất thiện, trong nội tâm cũng có những tư tưởng thiện và những tư tưởng bất thiện. Có dùng trí năng để tư duy và khảo sát thì mới thấy rõ được cái gì là thiện nên tu tập và cái gì là bất thiện cần phải được chuyển hóa.

3. Kiên trì (tinh tấn giác phần): bền chí tu tập, không biếng nhác, không gián đoạn.

4. Vui vẻ (hỉ giác phần): tâm ý vui vẻ, lời nói ôn hòa, thái độ nhã nhặn.

5. Thư nhẹ (khinh an giác phần): tâm thư thái, nhẹ nhàng, mọi phiền não, kiến chấp đều rũ bỏ.

6. Tĩnh lặng (định giác phần): tâm ý hoàn toàn tĩnh lặng, không còn tán loạn, không còn vọng tưởng.

7. Buông bỏ (xả giác phần): rũ bỏ hết mọi “sở tri”, mọi kiến chấp về ngã và pháp, tâm hoàn toàn trong sáng, bình đẳng. Vì “sở tri” (hay kiến chấp) thuộc về tư tưởng, tức là “hành uẩn” trong năm uẩn, cho nên “xả giác phần” ở đây cũng còn được gọi là “hành xả giác phần”.

Khi công phu tu tập bảy yếu tố này đạt đến chỗ thuần thục thì tuệ giác bừng sáng, cho nên chúng được gọi là “bảy yếu tố giác ngộ”.

 

 

 

Số 8 

 

TÁM BƯỚC GIẢI THOÁT

(bát giải thoát)

 

Giải thoát là cởi bỏ được mọi sự trói buộc. Khi hành giả diệt trừ được mọi phiền não, không còn bị ràng buộc bởi những kiến chấp, chướng ngại, mê muội, thì được giải thoát. Thành quả giải thoát này gồm có tám bước, do công phu tu tập tám phép thiền định mà đạt được. Khi đã đạt được cả tám bước giải thoát ấy rồi thì hành giả liền vượt thoát ra ngoài ba cõi, chấm dứt sinh tử luân hồi.

1. Bước giải thoát đầu tiên:

Trong tự thân đã sẵn có tâm tham ái về chính sắc thân của mình, vì muốn diệt trừ tâm tham ái ấy, hành giả quán chiếu để thấy rõ tính chất bất tịnh, vô thường của thân thể mọi người. Do sự quán chiếu này mà tâm tham ái tự thân không còn nữa. Đó là bước giải thoát đầu tiên của hành giả. (Nội hữu sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát.)

2. Bước giải thoát thứ hai:

Tuy tâm tham ái tự thân đã dứt, nhưng tâm tham ái đối với cõi Dục vẫn còn nhiều, cho nên hành giả cần tiếp tục quán chiếu để thấy rõ hơn nữa tính chất vô thường, bất tịnh của vật chất (sắc thân mọi người) ở cõi Dục; từ đó diệt trừ được tâm tham ái đối với cõi Dục. Đó là bước giải thoát thứ hai của hành giả. (Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát.)

3. Bước giải thoát thứ ba:

Khi tâm tham ái đối với tự thân và vật chất cõi Dục đã không còn khởi động nữa thì cái đẹp hiển hiện. Tâm ý của hành giả bấy giờ trở nên trong sạch, sáng suốt, và tiếp tục quán chiếu để thấy rõ sự nhiệm mầu của thực tại vạn hữu; từ đó niềm an lạc phát sinh và tăng trưởng trong khắp tự thân. Hành giả hoàn toàn an trú trong cảnh giới an lạc ấy, và đạt được bước giải thoát thứ ba. (Tịnh giải thoát, thân tác chứng, cụ túc trú.)

4. Bước giải thoát thứ tư:

Với tâm ý trong sáng, không tham đắm, không vướng mắc, hành giả vượt ra khỏi phạm vi hạn hẹp của tự thân để quán chiếu tính chất vô biên của không gian và đồng nhất mình với không gian vô biên đó; đồng thời hành giả cũng thấy rõ tính cách đồng nhất giữa không gian vô biên và các vật thể. (Không vô biên xứ giải thoát.)

5. Bước giải thoát thứ năm:

Tiến thêm một bước, hành giả quán chiếu để thấy rõ rằng, cả không gian và thời gian đều dung nhiếp lẫn nhau, nương vào nhau mà tồn tại; cả hai đều không đứng độc lập với nhận thức, mà chính là những biểu tượng của nhận thức. Hành giả an trú trong chánh niệm “tâm thức bao hàm cả không thời gian”, tức là an trú trong bước giải thoát thứ năm. (Thức vô biên xứ giải thoát.)

6. Bước giải thoát thứ sáu:

Hằng ngày chúng ta nhìn thực tại bằng các khuôn khổ của tư tưởng – tức là những ý niệm đối đãi về trong - ngoài, có - không, sinh - diệt, cao - thấp, trên - dưới, lớn - nhỏ, v.v... Nhưng tự thân thực tại thì không bao giờ mang lấy những khuôn khổ như vậy. Cho nên, khi tu tập phép thiền định thứ sáu này, hành giả phải quán chiếu để thấy rõ tính chất vô tướng của thực tại vạn hữu. Với phép thiền quán này, hành giả vượt thoát được thế giới khái niệm, vất bỏ được các khuôn khổ của tư tưởng, và thực tại hiển lộ trong thật tướng như như bình đẳng của nó. Đó là bước giải thoát thứ sáu mà hành giả đạt được. (Vô sở hữu xứ giải thoát.)

7. Bước giải thoát thứ bảy:

Khi hành giả bước sang giai đoạn vất bỏ được sự phân biệt về chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức – tức là không còn thấy có một bên là chủ thể quán chiếu và một bên là đối tượng quán chiếu, thì đó là lúc hành giả đang ở trong trạng thái thiền định gọi là “không phải tư tưởng cũng không phải là không phải tư tưởng”; tức là bước giải thoát thứ bảy. (Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.)

8. Bước giải thoát thứ tám:

Đây là bước giải thoát sau cùng, là đỉnh cao nhất của tuệ giác mà hành giả đạt được. Lúc này hành giả thật sự thấu suốt chân tướng của thực tại, giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khái niệm (cảm thọ và tư tưởng), phá tan được lưới sinh tử, không rơi lọt lại vào vòng luân hồi. (Diệt tận giải thoát, hay Diệt thọ tưởng giải thoát.)

 ............................................

Số 8

 

TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ của BẬC ĐẠI NHÂN

(bát đại nhân giác)

 

Do dùng trí tuệ quán chiếu mà thấy rõ được thật tướng của vạn hữu thì gọi là giác ngộ. Chữ “đại nhân” ở đây được dùng để chỉ cho các bậc đã giác ngộ. Các bậc đại nhân sở dĩ đã giác ngộ là vì quí ngài đã dùng trí tuệ quán chiếu và đã thấy rõ chân tướng của thực tại vạn hữu qua tám đề tài thiền quán sau đây:

1. Cuộc đời, nói chung là những yếu tố cấu tạo nên con người và vạn vật như bốn đại và năm uẩn đều là trống rỗng (không); là sinh diệt và thay đổi không ngừng (vô thường); là đầy dẫy khổ đau (khổ); là hư ngụy và không có thực thể (vô ngã); còn nói riêng về “ta” thì tâm ta là nguồn cội phát sinh bao điều xấu, và thân ta thì chỉ là nơi tích tụ của vô vàn tội lỗi.

2. Càng lắm tham muốn (đa dục) thì càng nhiều khổ đau (đa khổ). Càng ít tham muốn (thiểu dục) thì thân tâm càng được thư thái (tự tại).

3. Càng chạy theo danh lợi thì càng gây nhiều phiền não tội lỗi. Nếu biết sống vừa ý với điều kiện

vật chất khiêm nhượng (tri túc) thì tâm ý lúc nào cũng được an vui, để chỉ đeo đuổi một sự nghiệp duy nhất của mình là thành tựu trí tuệ giác ngộ.

4. Tính lười biếng luôn luôn đưa ta đến con đường đọa lạc. Vì vậy, ta phải luôn luôn siêng năng tu tập để diệt trừ phiền não và vượt khỏi vòng trói buộc của sinh tử luân hồi.

5. Chính vì vô minh mà ta cũng như mọi người cứ bị giam hãm trong ngục tù sinh tử. Vì vậy, ta luôn luôn phải cố gắng học rộng, biết nhiều, phát triển trí tuệ, đạt được biện tài để giáo hóa cho mọi người, tất cả đều được niềm vui lớn.

6. Sự nghèo khổ dễ khiến cho người ta gây nên nhiều tội lỗi xấu xa; cho nên người tu hạnh Bồ-tát phải thường xuyên thực hành hạnh bố thí, không phân biệt kẻ ghét người thương, bỏ qua những điều ác người ta đã làm đối với mình, và biết xót thương những người đã làm ác.

7. Năm thứ dục vọng (ngũ dục) đầy sức quyến rũ, làm cho con người gây nên tội lỗi và chịu nhiều hoạn nạn; cho nên người tu học sống trong thế tục mà không nhiễm những thói hư tật xấu của thế tục, lúc nào cũng sống đời đạm bạc, giữ phạm hạnh thanh cao, đem lòng từ bi để đối xử với tất cả mọi người.

8. Mọi loài chúng sinh đang chịu bao thống khổ trong biển lửa sinh tử, cho nên hạnh nguyện của người tu học là phát tâm đại thừa, nguyện cứu tế cho mọi người, mọi loài, khiến cho tất cả đều đạt được niềm vui giải thoát.

Tám đề tài thiền quán trên đây được rút ra từ kinh Bát Đại Nhân Giác. Vậy, để hiểu được một cách tường tận và sâu sắc hơn, xin đọc Kinh Bát Đại Nhân Giác (Nhất Hạnh dịch và chú giải, Lá Bối xuất bản).

 

 

TÁM KHOA GIÁO

(bát giáo)

 

Tất cả giáo pháp do đức Phật giảng dạy trong suốt cuộc đời hoằng hóa của Ngài, được đại sư Trí Giả của tông Thiên thai (Trung-hoa) phân chia thành tám loại khoa giáo, căn cứ trên hai mặt:

A. Về mặt nội dung, có bốn loại:

1. Tạng giáo: những giáo pháp có nội dung nông cạn, dễ hiểu, chủ yếu là dành cho những người căn cơ thấp kém.

2. Thông giáo: những giáo pháp có nội dung cao hơn, phù hợp cho cả những người có căn cơ thấp lẫn căn cơ cao, trong đó, những giáo nghĩa về “không” và “vô sinh” được đặc biệt nhấn mạnh.

 3. Biệt giáo: những giáo pháp có nội dung sâu xa, đặc biệt để giáo hóa chúng Bồ-tát đại thừa.

4. Viên giáo: giáo pháp thâm diệu, cao tột mà chỉ có các vị Đại Bồ-tát với trí tuệ siêu việt mới lĩnh hội và chứng ngộ được.

 

B. Về mặt hình thức, có bốn loại:

1. Đốn giáo: Đối với thính chúng có căn trí sáng suốt, linh lợi, đức Phật dùng các pháp môn thật sâu xa, mầu nhiệm để đưa họ đến quả vị giác ngộ một cách mau chóng. Các loại kinh điển đại thừa có nội dung cao siêu như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v... thuộc về loại này.

2. Tiệm giáo: Đối với thính chúng có căn tính thấp kém hơn, đức Phật dùng các pháp môn tiệm tiến, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao để hướng dẫn họ từng bước một, cho đến khi đạt được quả vị giác ngộ. Các kinh A Hàm và một số kinh điển đại thừa khác thuộc về loại này.

3. Bí mật giáo: Đối với hạng người có căn trí tinh thuần đặc biệt, đức Phật chỉ dùng sức “không thể nghĩ bàn” (bất khả tư nghị) ở thân khẩu ý của mình mà giáo hóa một cách bí mật, chỉ có Ngài và các đương sự liên hệ mới hiểu được nhau mà thôi. Các thần chú ở rải rác trong các kinh điển đại thừa là một ví dụ.

4. Bất định giáo: Cũng có những giáo pháp mà khi đức Phật nói ra, một số người thì lĩnh hội được và rất lấy làm lợi lạc, nhưng đồng thời, một số người khác thì lại không thể lĩnh hội được và chẳng thấy có ích lợi gì cả.

 

 

TÁM NGỌN GIÓ

(bát phong)

 

Gió thổi làm lay động muôn vật. Trong đời sống thường tình có tám thứ luôn luôn làm lay động lòng người, khiến sinh ra lắm điều bất an, vọng tưởng; đạo Phật gọi tám thứ đó là “tám ngọn gió”:

1. Lợi: điều gì làm cho thỏa mãn ý muốn của mình.

2. Suy: điều gì không làm thỏa mãn ý muốn của mình.

3. Hủy: lời chê bai sau lưng mình.

4. Dự: lời khen ngợi sau lưng mình.

5. Xưng: lời khen ngợi trước mặt mình.

6. Cơ: lời chê bai trước mặt mình.

7. Khổ: đau thương, buồn phiền.

8. Lạc: vui mừng, sung sướng.

 

 

TÁM NGUYÊN TẮC HÀNH ĐỘNG CHÂN CHÍNH

(bát chánh đạo - bát thánh đạo)

 

Tám nguyên tắc hành động chân chính là một trong những đạo lí căn bản nhất của đạo Phật. Về mặt nhân bản, đó là nền đạo đức học thực nghiệm của Phật giáo dùng để rèn luyện con người có được một nhân cách đẹp đẽ, cao thượng, trọn vẹn; về mặt tôn giáo thì đó là những con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau, đạt được an lạc, giải thoát khỏi ba cõi, giác ngộ viên mãn, và chứng nhập niết bàn. Tám nguyên tắc này thuộc về sự thật thứ tư (đạo đế) của giáo lí nền tảng “Bốn Sự Thật” (đã được trình bày ở trước). Giáo lí Bát Chánh Đạo này quan trọng đến nỗi, nó đã được Phật dạy ngay trong bài pháp đầu tiên (tại vườn Lộc-uyển, cho năm vị sa môn nhóm Kiều Trần Như) sau ngày thành đạo, rồi dạy đi dạy lại trong suốt 45 năm hóa đạo, và trong những giờ phút cuối đời trước khi nhập diệt (tại rừng Câu-thi-na), Ngài vẫn còn dạy lần chót cho vị đệ tử xuất gia sau cùng là Tu Bạt Đà La.

1. Thấy biết chân chính (chánh kiến).Thấy biết chân chính là thấy biết vạn pháp (trong đó gồm cả bản thân mình) đúng với tự tính chân thật của chúng. Một cách cụ thể, khi ta nhìn cuộc sống đúng theo cái nhìn của đạo lí “Bốn Sự Thật” (tứ đế), đó là ta có “chánh kiến”; khi ta nhìn vạn sự vạn vật và ta thấy rõ những tính cách vô thường, vô ngã, duyên sinh của chúng, đó là “chánh kiến”. Vậy, chánh kiến là thấy biết đúng với SỰ THẬT, nghĩa là cái thấy không còn bị che phủ bởi vô minh, thành kiến, cố chấp, dục vọng; hay cũng có thể nói, chánh kiến chính là tuệ giác của bậc giác ngộ.

2. Suy nghĩ chân chính (chánh tư duy).Suy nghĩ chân chính là sự suy nghĩ đặt trên căn bản của sự thật, suy nghĩ đúng với bản tính chân thật của vạn pháp. Ta vận dụng tâm trí để suy nghiệm về vạn pháp đúng với bản chất vô thường, vô ngã, duyên sinh của chúng, đó là “chánh tư duy”. Sự suy tư chân chính sẽ đem lại cho ta những tư tưởng chân chính. Nếu những tư tưởng xấu xa, sai lầm đã làm cho ta trở nên con người thấp hèn, thô lỗ, thì ngược lại, những tư tưởng chân chính, đúng đắn sẽ nâng cao phẩm cách của ta trở thành người trong sạch, cao thượng. Người có tư duy chân chính sẽ thấy rằng vô minh là đầu mối của mọi lỗi lầm và gây ra muôn vàn đau khổ, do đó, họ diệt trừ được tâm tham dục, luyến ái, ích kỉ, sân hận, oán thù, hung bạo, ganh ghét, và thay vào đó, họ sẽ phát triển những tư tưởng vị tha, thiện chí, ôn hòa, thương yêu, giúp đỡ...

3. Nói năng chân chính (chánh ngữ).Nói năng chân chính là nói năng đúng với sự thật. Không nói dối chỉ là một khía cạnh của “chánh ngữ”, chứ chưa phải là “chánh ngữ”. Nhiều khi chúng ta không nói dối nhưng vẫn sai với sự thật: chúng ta thấy biết làm sao thì nói làm vậy, nhưng vì cái thấy biết ấy đã bị sai lạc, lầm lẫn, cho nên chúng ta đã nói không đúng với sự thật. Vậy, lời nói chân chính là lời nói không dối trá, không độc ác, không đâm thọc, không thêu dệt và siểm nịnh.  Đó là những lời nói không xuất phát từ lòng tham dục, ích kỉ, hận thù, giận dữ, ngu dốt, ganh tị.  Nói năng chân chính là không nói những lời nhằm lừa gạt, nịnh hót, phỉ báng, chửi mắng, sỉ nhục, vu oan, chia rẽ, nghĩa là tất cả những lời nói với dã tâm hại người.  Lời nói chân chính là những lời nói từ ái, hòa nhã, dịu dàng, đoàn kết, xây dựng, đem lại an vui, lợi ích và tin tưởng cho mọi người. Chánh ngữ còn là những lời nói thận trọng, khéo léo nhằm hướng dẫn người đi vào nẻo thiện, giúp cho người khai mở trí tuệ, có được cái thấy sáng suốt, cái nhìn chính xác, nếp suy tưởng đúng đắn, phù hợp với thực tại. Vì vậy, nếu giảng pháp mà làm cho người ta hiểu sai Phật pháp, cố chấp lí thuyết, hoặc càng nghe càng thấy tối tăm, nghi ngờ, thì đó là tà ngữ, không phải là chánh ngữ.

4. Hành động chân chính (chánh nghiệp).Có ba loại hành động (tam nghiệp): hành động của ý (ý nghiệp), hành động của miệng (khẩu nghiệp), và hành động của thân (thân nghiệp). Trong pháp số “Bát Chánh Đạo” này, yếu tố chánh nghiệp ở đây chỉ nhằm nói đến thân nghiệp mà thôi, còn ý nghiệp và khẩu nghiệp thì đã được bao hàm trong các yếu tố khác. Tất cả mọi hành động hằng ngày của thân thể đều là thân nghiệp  – ngay cả sự ăn uống, tuy là hành động của miệng, nhưng vẫn thuộc thân nghiệp, còn khẩu nghiệp chỉ là sự nói năng mà thôi; vì vậy, khẩu nghiệp cũng được gọi là “ngữ nghiệp”. Hành động chân chính là những hành động không phát xuất từ tham lam, vị kỉ, sân hận, oán thù, ngu si, ganh tị..., bởi vậy, chúng không gây ra đau khổ cho người khác, không phá hoại hạnh phúc của mọi người, không tàn hại người, vật và thiên nhiên. Hành động chân chính là những hành động được soi sáng bởi chánh kiến, chánh tư duy..., được thúc đẩy bởi tình thương, sự hiểu biết, lòng cởi mở, tính vị tha, và chắc chắn sẽ đem lại an vui, hạnh phúc, thanh bình cho xã hội, đem lại tươi mát cho mọi loài và thiên nhiên. Đi đứng nằm ngồi theo chánh pháp, ăn uống ngủ nghỉ theo chánh pháp, làm việc theo chánh pháp, tu học theo chánh pháp..., đều là những hành động chân chính.

5. Mưu sinh chân chính (chánh mạng).Mọi người đều phải làm việc để nuôi sống cho chính mình và cho thân nhân mình, đó là điều hiển nhiên. Nhưng trong những công việc mưu sinh cũng có những việc tốt và những việc xấu. Người tu học không nên chọn những công việc có thể gây khổ đau cho người khác, làm tăng thêm sự bất công xã hội, hoặc tàn hại thiên nhiên và tiêu diệt sự sống của mọi loài. Người tu học khi có ý thức mưu sinh chân chính thì sẽ tìm những nghề nghiệp lương thiện, trong sạch, tâm niệm không gian tham, không lươn lẹo, không lường gạt, không bóc lột sức người, không lạm dụng sức vật, không làm giàu trên mồ hôi nước mắt người khác. Những công việc như chế tạo và buôn bán các loại vũ khí, các loại hóa chất, độc dược để tàn phá đời sống con người, loài vật và thiên nhiên; môi giới hoặc buôn bán người (con gái, trẻ em) cho những tổ chức bất lương, vô nhân đạo; nuôi và buôn bán súc vật cho người ta ăn thịt; săn thú hoặc lưới cá bán cho người tiêu thụ; làm thịt súc vật trong lò sát sinh; chế tạo và buôn bán rượu cùng các chất ma túy v.v..., đều là những phương tiện mưu sinh bất chính, có tính chất phá hoại và gây đau khổ, người tu học nên tránh xa.

6. Siêng năng chân chính (chánh tinh tấn).“Siêng năng” ở đây không phải là dồn hết mọi nỗ lực để làm một công việc gì đó cho xong, rồi thôi; nhưng đó là sự cố gắng liên tục, bền bỉ, dẻo dai trong sự tu tập cho đến khi đạt được mục tiêu cuối cùng là đạo quả giải thoát. Nói rõ hơn, “chánh tinh tấn” là sự siêng năng liên tục trong việc kiểm soát thân miệng ý, làm cho tiêu trừ mọi tật xấu và phát triển các hạnh lành. Có thể nói, “siêng năng chân chính” ở đây không có gì khác hơn là “bốn sự cần mẫn” (tứ chánh cần) đã trình bày ở trước. Nếu sự siêng năng của mình là để nhằm phục vụ cho những ý đồ đen tối, làm tăng trưởng dục vọng, gây đau khổ cho mọi người, thì đó là “tà tinh tấn”; người tu học không nên “tinh tấn” theo cách đó.

7. Nhớ nghĩ chân chính (chánh niệm).Khi ta nhớ đến điều gì tức là ta đem điều ấy đặt trên ý thức ta ở giây phút hiện tại.  Vậy “niệm” hay “quán niệm” là sống với giờ phút hiện tại. Khi mình đang làm việc gì thì mình để hết tâm ý lên trên việc đó, khi nghe điều gì thì để hết tâm ý vào điều đang nghe, đang nói chuyện gì thì để hết tâm ý vào chuyện đang nói, đang suy nghĩ vấn đề gì thì để hết tâm ý vào vấn đề đang suy nghĩ, đó là sống có chánh niệm. Một cách cụ thể, nếu thực tập pháp môn “bốn lĩnh vực quán niệm” như đã đề cập ở trước, tức là thực tập chánh niệm. Có chánh niệm thì cũng có thất niệm. Khi ta nói mà không biết đang nói gì, khi làm mà không biết đang làm gì, khi suy nghĩ mà không biết đang suy nghĩ gì, tức là ta không sống trong chánh niệm mà là đang sống trong lãng quên, trong thất niệm; mà lãng quên, thất niệm cũng đồng nghĩa với mê muội, vô minh, vô ý thức. Người tu học nên cố gắng, đừng để cho nếp sống thất niệm ấy xâm chiếm đời sống của mình. Mặt khác, chánh niệm cũng có nghĩa là những điều nhớ nghĩ chính đáng, và trái lại thì gọi là tà niệm. Nếu những điều ta nhớ nghĩ đến mà làm cho thân tâm ta an lạc, khuyến khích và giúp đỡ ta tiến bộ trên đường tu tập đạo giải thoát, thì đó là những nhớ nghĩ chính đáng (chánh niệm); ngược lại, những điều hễ nhớ nghĩ đến là ta thấy bất an, buồn phiền, oán hận, chán nản, hoặc ham muốn, thèm khát, say mê điên cuồng, mê muội tâm trí..., thì đó là những nhớ nghĩ bất chánh, tội lỗi (tà niệm). Nếu ta nghĩ rằng có đức Phật A Di Đà luôn luôn sẵn sàng đợi ta nhớ nghĩ đến Ngài là Ngài tiếp dẫn ta về sống ở thế giới Cực-lạc hoàn toàn an vui, sung sướng, muốn ăn tức khắc có món cao lương mĩ vị, muốn mặc tức khắc có áo quần sang trọng, trang sức lộng lẫy, khỏi phải lo toan gì..., rồi ta không thèm tu tập, không bỏ ác làm lành gì cả, cứ ngồi “niệm Phật” để chờ vãng sanh, thì đó cũng là tà niệm.

8. Thiền định chân chính (chánh định).Hành “thiền” để đạt được tâm “định” thì gọi là “thiền định”. “Định” là giữ tâm ý an trụ vào một điểm hay một đề mục quán chiếu, và “thiền” chính là phương pháp thực tập để giữ cho tâm ý được an trụ. Khi tâm ý đã được tập trung thì trí tuệ phát sinh. Do trí tuệ đó mà hành giả thấy rõ được chân tướng của thực tại vạn hữu (chánh kiến), và giải thoát được những sợi dây ràng buộc của vô minh, của thành kiến cố chấp, của tham dục ích kỉ, của ngã chấp và pháp chấp. Đó là chánh định. Sở dĩ “chánh định” đã được kể là một yếu tố quan trọng trong “Bát Chánh Đạo” là vì thời Phật tại thế đã có rất nhiều thứ tà định của ngoại đạo. Ngoại đạo tu tập những loại định này cốt để trốn tránh đời sống khổ đau. Có những vị như A La Lam hay Uất Đầu Lam Phất chẳng hạn, có định lực lớn, chứng đắc các cõi thiền rất cao, nhưng cũng chỉ là để trốn tránh cái thực tế khổ đau của kiếp người. Chính đức Phật trước khi thành đạo cũng đã từng theo học với quí vị ấy về những loại định này, và cũng đã chứng đắc như họ, nhưng Ngài thấy điều đó vẫn là vô ích, chưa phải là mục đích tìm cầu của Ngài. Mục đích của Ngài là giải thoát khổ đau, giải thoát sinh tử. Giải thoát khổ đau và trốn tránh khổ đau là hai hành động hoàn toàn khác nhau. Bởi vậy, tà định là để trốn tránh, còn chánh định mới là giải thoát.Tám yếu tố trên đây, nếu phân tích theo “Ba Môn Học Giải Thoát” (tam vô lậu học), thì chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng thuộc về GIỚI; chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định thuộc về ĐỊNH; chánh tư duy và chánh kiến thuộc về TUỆ. Nếu phân tích theo “Ba Nghiệp” thì chánh nghiệp và chánh mạng thuộc về THÂN NGHIỆP; chánh ngữ thuộc về KHẨU NGHIỆP; chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định thuộc về Ý NGHIỆP. Bất cứ một trong tám yếu tố nào trên đây cũng bao gồm hai phần NHÂN và QUẢ của chính nó – nghĩa là, tự thân nó làm nhân cho nó, và cũng tự thân nó là quả của nó. Muốn đạt được chánh kiến (quả) thì ta phải thực tập chánh kiến (nhân); hay nói cách khác, nếu ta tu tập chánh kiến (nhân) thì nhất định ta sẽ có được chánh kiến (quả). Cả bảy yếu tố kia cũng vậy. Lại nữa, trong tám yếu tố trên, bất cứ một yếu tố nào cũng có thể là NHÂN, và cũng đồng thời là QUẢ của bảy yếu tố kia. Do ta có chánh kiến cho nên ta sẽ đạt được chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định v.v...; hay có thể nói ngược lại, sở dĩ ta có chánh kiến là vì ta đã đạt được chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định v.v... Bởi vậy, có thể nói, bất cứ một yếu tố nào trên đây cũng bao gồm cả bảy yếu tố kia của bát chánh đạo. Tất cả tám yếu tố đó đều tương quan tương liên và trợ giúp, nâng đỡ lẫn nhau để đưa hành giả đến thành quả giác ngộ. 

 

 

TÁM THỨC

(bát thức)

 

Thức – hay tác dụng nhận thức, tức là cái BIẾT, là những dòng tiếp nối của cảm giác hay tri giác phân biệt. Khi các giác quan (CĂN) tiếp xúc với đối tượng của chúng (CẢNH hay TRẦN) thì liền phát sinh cái biết (THỨC). Vậy thức được phát hiện từ căn cứ của nó là căn và trần, và nương tựa trên căn cứ đó mà tồn tại. Theo Duy Thức Học, thức có tám tác dụng – tức là có tám thức:

1. Nhãn thức: cái thấy, tức là cái biết sinh ra khi mắt (nhãn căn) tiếp xúc với cảnh vật (sắc trần).

2. Nhĩ thức: cái nghe, tức là cái biết sinh ra khi tai (nhĩ căn) tiếp xúc với âm thanh (thanh trần).

3. Tị thức: cái ngửi, tức là cái biết sinh ra khi mũi (tị căn) tiếp xúc với mùi (hương trần).

4. Thiệt thức: cái nếm, tức là cái biết sinh ra khi lưỡi (thiệt căn) tiếp xúc với các thức ăn uống (vị trần).

5. Thân thức: cái cảm xúc, tức là cái biết sinh ra khi thân thể (thân căn) đụng chạm mọi vật (xúc trần).(1)

Tác dụng nhận thức của năm thức trên đây hoàn toàn chỉ có tính cách thuần túy cảm giác, không có tính cách phán đoán, ước lượng và suy luận, cho nên được gọi là “năm thức cảm giác” – các nhà duy thức học thường gọi là “năm thức trước”. Và vì vậy, hình thái nhận thức của chúng là hiện lượng(2); đối tượng nhận thức của chúng là hữu chất tánh cảnh(3); và tính chất nhận thức của chúng bao gồm cả thiện, ác, và vô kí(4).

Để có được tác dụng nhận thức, năm thức trên đây luôn luôn liên hiệp với 34 hiện tượng tâm lí (tức là những thuộc tính của thức mà Duy Thức Học gọi là những “tâm sở”), gồm có 5 tâm sở biến hành (xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư); 5 tâm sở biệt cảnh (dục, thắng giải, niệm, định, tuệ); 11 tâm sở thiện (tín, tàm, quí, vô tham, vô sân, vô si, cần, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại); và 13 tâm sở bất thiện (tham, sân, si, vô tàm, vô quí, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri)(5).

Vì được phát sinh từ căn và cảnh, năm thức này luôn luôn liên hệ mật thiết với hai lĩnh vực sinh và vật lí, và hoạt động một cách gián đoạn, không liên tục – như trong khi ngủ chẳng hạn, chúng ngưng hoạt động; hoặc nếu có hoạt động thì cũng ở một cường độ thật yếu ớt, chỉ đủ để tạo nên những cảm giác vô thức nơi thân thể.

Khi đã giác ngộ thì năm thức cảm giác này được chuyển thành thành sở tác trí(6).

6. Ý thức: cái biết sinh ra khi ý căn (mạt-na thức)(7) tiếp xúc với pháp trần(7).

Câu định nghĩa trên có vẻ thật giản dị, thực ra, phạm vi hoạt dụng của ý thức rộng rãi vô cùng. Nó có quyền năng rất lớn, có thể trấn ngự các thức khác, hoạt động tự do tự tại, có thể tạo lập và thay đổi bản chất của đời sống cá nhân lẫn tập thể. Chính nó xoay con người lưu chuyển trong vòng sinh tử luân hồi, hay đưa con người thẳng đến bến bờ giải thoát; bởi vì chính nó là ý nghiệp, là thức đóng vai trò tạo nghiệp, là động cơ chủ yếu đưa tới các hành động thuộc về thân thể và ngôn ngữ.

Ý thức được nhận diện dưới hai hình thức: liên hiệp với năm thức trước (ngũ câu) và đơn độc (độc đầu).

a) Tác dụng liên hiệp với năm thức cảm giác (ngũ câu ý thức). Cái biết phát sinh từ năm thức trước mới chỉ thuần là cảm giác; khi có thêm tác dụng của ý thức thì cái biết cảm giác sẽ trở thành tri giác – là cái biết rõ ràng, sáng tỏ.

Khi mắt nhìn cái hoa, nếu không có ý thức thì cái thấy của nhãn thức chỉ là cái thấy lờ mờ, không rõ ràng; thậm chí, nhiều khi thấy mà hầu như không thấy. Nhưng nếu có mặt của ý thức thì cái hoa sẽ hiển hiện một cách rõ ràng, và cái biết sẽ trở nên sáng tỏ, tỉ mỉ hơn: từ hình dáng, đường nét, màu sắc, cho đến một con ong đang sà xuống hút mật, một ngọn gió thổi qua làm lay động cành lá v.v..., tất cả các chi tiết có liên hệ đến cái hoa lúc ấy đều được nhận biết một cách cặn kẽ. Khi liên hiệp với năm thức trước như vậy, ý thức được gọi là ngũ câu ý thức, và tác dụng của nó là tri giác. Ở đây chúng ta cần để ý, cái biết “tri giác” về cái hoa vừa nêu ra, là cái biết thật thuần túy – nghĩa là cái hoa làm sao thì biết làm vậy, mọi chi tiết liên hệ đến cái hoa thế nào thì biết thế đó, hoàn toàn không có ý niệm nào khác xen vào; ý thức ngũ câu trong trường hợp này chính là tri giác thuần túy, và vì vậy, hình thái nhận thức của nó là hiện lượng(2), đối tượng nhận thức của nó là hữu chất tánh cảnh(3).

Nhưng trong thực tế của đời sống hằng ngày, chúng ta rất ít khi thấy bằng tri giác thuần túy như vậy; nếu có thì cũng chỉ trong vài giây phút ngắn ngủi, còn hầu hết là thấy bằng suy tưởng, đắn đo, so sánh, ước lượng, phán đoán v.v... Do đó, trong chúng ta luôn luôn đầy ắp những bóng dáng, hình ảnh của thực tại, mà ít khi thấy được cái mặt thật của thực tại. Bởi vậy, hình thái nhận thức của ý thức ngũ câu hầu hết là tỉ lượng(2), và đối tượng nhận thức của nó là đới chất cảnh(3).

Nói chung thì trong đời sống hằng ngày, mọi cái biết đều được phát hiện từ các giác quan, và đều được ý thức làm cho sáng tỏ. Cho nên, Duy Thức Tam Thập Tụng đã gọi cả sáu thức này là “liễu biệt cảnh thức” (cái biết phân biệt rõ ràng về mọi vật).

b) Tác dụng đơn độc (độc  đầu ý thức). Trong trường hợp này, ý thức chỉ hoạt động độc lập, không liên hiệp với năm thức trước. Trong các hoạt động như suy tư, hồi tưởng, tưởng tượng, lí luận, so đo, phán đoán...  nó được gọi là ý thức tán vị (tán vị ý thức – nghĩa là ý thức trong trạng thái phân tán), và đó là các hoạt động phổ thông, thường xuyên nhất của ý thức. Mộng mị trong giấc ngủ cũng là một loại hoạt động của ý thức độc đầu, và trong trường hợp này nó được gọi là ý thức trong mộng (mộng trung ý thức). Ở trường hợp người bị điên loạn thì nó được gọi là ý thức trong cơn điên loạn (loạn trung ý thức).  Và khi ở trong trạng thái thiền định thì nó được gọi là ý thức trong định (định trung ý thức). Tán vị, độc đầu, mộng, loạn, định, đó là năm trạng thái của ý thức. Theo đó thì hình thái nhận thức của ý thức độc đầu có khi là hiện lượng(2) (như ý thức trong định), có khi là phi lượng(2) (đó là ý thức trong mộng và trong cơn điên loạn), nhưng hầu hết là tỉ lượng(2) (trường hợp ý thức tán vị); còn đối tượng nhận thức của nó thì hoàn toàn là độc ảnh cảnh(3).

Một cách tổng quát, hình thái nhận thức của ý thức (cũng gọi là thức thứ sáu) bao gồm cả ba lượng(2); đối tượng nhận thức của nó bao gồm cả ba cảnh(3) – tức là “pháp trần”; và tính chất nhận thức của nó thì có đủ cả ba tính(4) (thiện, ác và vô kí). Để có được tác dụng nhận thức, ý thức luôn luôn liên hệ với tất cả 51 tâm sở(5).

Cũng như năm thức trước, ý thức liên hệ mật thiết với cả hai lĩnh vực sinh lí (căn) và vật lí (cảnh). Tất cả sáu thức này đều được phát sinh theo luật nhân duyên (có điều kiện: khi căn tiếp xúc với cảnh) như bất cứ một hiện tượng sinh vật lí nào khác, cho nên cũng có tính cách chuyển biến, không đồng nhất, và hoạt động có lúc bị gián đoạn, không liên tục. Khi đã giác ngộ thì ý thức được chuyển thành diệu quan sát trí(6).

Duy Thức Học cũng có khi gọi chung thức thứ sáu và năm thức cảm giác là “sáu thức trước”.

7. Mạt-na thức (tức là ý,  hay ý căn, cũng gọi là “thức thứ bảy”): cái biết chấp ngã, cái biết phân biệt ngã với phi ngã. Mạt-na vừa là thức mà cũng vừa là căn (làm chỗ nương tựa cho ý thức). Nó được phát sinh từ thức thứ tám là a-lại-da, nương tựa trên a-lại-da để tồn tại, rồi lại lấy a-lại-da làm đối tượng nhận thức. Vì vậy, thức a-lại-da vừa là căn mà cũng vừa là đối tượng của thức mạt-na. Khi lấy a-lại-da làm đối tượng nhận thức, mạt- na đã bám sát lấy a-lại-da và cho đó là cái ngã chân thật; do đó, tính chất của mạt-na là chấp ngã – Duy Thức Học gọi là “tư lương”, tức là suy tư, đo lường, tính toán, ôm ghì, bám chặt. Tính chất chấp ngã này đã từng tích tụ rất sâu dầy từ vô thỉ, và đã cùng sinh ra một lần với thân mạng, cho nên ta cũng có thể gọi nó là bản năng chấp ngã. Thật ra, không hề có một cái gọi là “ngã”, chẳng qua chỉ vì thức mạt-na đã từng bị vô minh che lấp, nên đã có nhận thức sai lầm (tà kiến) về ngã; và, theo Duy Thức Học, đó là đầu dây mối nhợ cho tất cả mọi sai lầm về nhận thức. Với nhận thức sai lầm về ngã này, thức mạt-na luôn luôn có ảo tưởng rằng, thân mạng là thật ngã, là chủ thể, và tất cả những gì ở bên ngoài thân mạng là thật pháp, là đối tượng của ngã; và rằng, ngã và pháp (hay chủ thể và đối tượng) là hai hiện tượng độc lập với nhau. Vì vậy, mạt-na tuy là một thứ trực giác – trực giác chấp ngã – nhưng chỉ là một thứ công dụng tợ hiện lượng(2), cho nên hình thái nhận thức của nó luôn luôn là phi lượng(2). Lại nữa, cũng vì tính chất chấp ngã mà mạt-na không bao giờ tiếp xúc được với thế giới tánh cảnh(3), cho nên đối tượng nhận thức của nó chỉ hoàn toàn là đới chất cảnh(3). Về tính của mạt-na, Duy Thức Học cho rằng, nó không phải là thiện, cũng không phải là ác, mà là vô kí(4); nhưng vì bị vô minh che lấp (hữu phú), cho nên phải nói đầy đủ tính chất của nó là hữu phú vô kí.

Trong tác dụng nhận thức, mạt-na liên hệ với 18 tâm sở, gồm có: 5 tâm sở biến hành, tâm sở “tuệ” của 5 tâm sở biệt cảnh, và 12 tâm sở bất thiện (tham, si, mạn, tà kiến, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri)(5).

Bốn tâm sở bất thiện tham, si, mạn và tà kiến, theo thứ tự tức là ngã ái, ngã si, ngã mạn và ngã kiến, là bốn loại phiền não gốc rễ(8) tác động thường xuyên trên thức mạt-na. Chúng được coi là chính bản thân của mạt-na, và đó là tất cả những gì mà ta gọi là vọng nghiệp, là nguyên nhân chính của sinh tử luân hồi.

Ý thức, tuy phạm vi hoạt động vô cùng rộng rãi, nhưng vì nó lấy thức mạt-na làm “căn”, nên hoàn toàn tùy thuộc vào bản chất của mạt-na trong mọi tác dụng nhận thức. Nói cách khác, thức mạt-na là nền tảng cho mọi hành động (dù mang tính cách ô nhiễm hay thanh tịnh) của ý thức – và của cả năm thức trước nữa. Như vậy, ý (thức mạt-na) là điểm trung tâm, là cái động lực làm phát hiện nhận thức; và do ảnh hưởng của ý mà ý thức cũng mang lấy tà kiến phân biệt chấp ngã, cũng thấy biết, suy đoán, phán xét, suy nghĩ sai lầm, và đã dựng nên không biết bao nhiêu cái khung (phạm trù) tư tưởng – như ta, người, có, không, cao, thấp, trên, dưới, tốt, xấu, trong, ngoài, sinh, diệt v.v..., để từ đó tạo nên biết bao nghiệp nhân xấu ác, bao hành động vô minh, tà dục, và cứ thế, những nghiệp nhân này cứ tiếp tục nuôi dưỡng, bồi đắp cho bản chất sai lầm của mạt-na trong suốt quá trình sinh mạng. Dù hoạt động của sáu thức trước có lúc bị gián đoạn, nhưng bản năng chấp ngã của thức mạt-na thì luôn luôn liên tục. Cái mà người ta gọi là “bản năng tự tồn”, đó chính là thức mạt-na. Sự tồn tục của nó không những chỉ có trong một quá trình sinh mạng, mà nó đã hiện hữu từ trước khi cá nhân được thác sinh (từ vô thỉ) và cả sau khi cá nhân đã chết.

Nếu ý thức đã có khả năng tạo ra nghiệp nhân xấu để tiếp tục bồi đắp cho bản chất sai lầm của thức mạt-na, thì chính ý thức cũng có khả năng làm cho mạt-na trở nên trong sạch, thánh thiện. Ý thức có thể quán chiếu tính KHÔNG của ngã và pháp để ngăn chận bốn loại phiền não gốc rễ (si, kiến, mạn, ái), không cho hiện hành và tác động trên mạt-na, làm cho thức này mất dần sức mạnh chấp ngã – tức là làm trong sạch dần bản chất ô nhiễm. Và nếu công phu cứ được tiếp tục mãi thì đến một lúc nào đó, mạt-na sẽ hoàn toàn được trong sạch hóa, không còn bám lấy thức a-lại-da làm đối tượng chấp ngã nữa, rồi cái ảo tưởng về “thật pháp ở bên ngoài ngã” cũng tiêu mất, lúc đó, từ cái bản chất là một thức, mạt-na sẽ chuyển thành một loại tuệ giác gọi là bình đẳng tánh trí.(6)

8. A-lại-da thức: cái biết chứa đựng, gìn giữ và biến hiện – cũng gọi là “thức thứ tám”.

Thức a-lại-da là nền tảng của mọi tác dụng nhận thức và mọi hiện tượng tâm sinh vật lí. Nó không phải là cái mà người ta thường gọi là “linh hồn” (được chứa đựng trong một thể xác). Nó không có hình thái, không có dung tích, và không có một nơi nhất định nào dung chứa nó. Hoạt dụng của nó rất thâm mật, trí óc phàm tục không thể nào rõ thấu được. Cái mà Tâm Lí Học hiện đại gọi là “tiềm thức”, “vô thức”, hay “đà sống” mới chỉ là những khái niệm gần gũi với a-lại-da; vì thực ra, a-lại-da còn sâu kín, rộng lớn và sinh động hơn nhiều. Nó chính là bản thể, là bản chất hiện hữu của sinh mạng và của cả môi trường trong đó sinh mạng tồn tại.

Thức a-lại-da được nhận biết qua ba tác dụng: chứa đựng, gìn giữ và biến hiện.

a) Tác dụng chứa đựng. Thức a-lại-da, trong trường hợp này được gọi là “tàng thức”, vì tác dụng của nó ở đây là chứa đựng (tàng), được miêu tả bằng ba đặc tính:

- Đặc tính thứ nhất, nó chính là khả năng chứa đựng (năng tàng).

- Đặc tính thứ hai, nó chính là nội dung chứa đựng (sở tàng).

- Đặc tính thứ ba, nó chính là đối tượng chấp ngã của thức mạt-na (ngã ái chấp tàng).

Những gì chứa đựng trong a-lại-da đều gồm trong ba lĩnh vực: tâm lí (các thức và các tâm sở), sinh lí (cơ thể và các giác quan), và vật lí (thế giới vật chất); hay nói cách khác, đối tượng của thức a-lại-da, theo danh từ Phật học, gồm có danh (tinh thần) và sắc (vật chất)(9); hoặc tổng quát hơn, đó là tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ – tất cả các pháp(5). Các pháp này luôn luôn ở một trong hai trạng thái: hoặc là trạng thái phát hiện (Duy Thức Học gọi là hiện hành, tức là thế giới hiện tượng); hoặc là trạng thái tiềm ẩn (Duy Thức Học gọi là chủng tử, tức là hạt giống).

Như vậy, tự thân của thức a-lại-da luôn luôn gồm đủ hai phần chủ thể (năng tàng) và đối tượng (sở tàng). Hai phần này không ngừng biến chuyển linh động: các chủng tử từ a-lại-da phát hiện thành hiện hành, các hiện hành rơi trở lại vào a-lại-da thành chủng tử... Sự hoạt động đó hoàn toàn vô thức, ý thức của chúng ta không thể nào biết được.

b) Tác dụng gìn giữ. Đã có khả năng hàm chứa, thức a-lại-da lại còn có khả năng duy trì và bảo tồn tất cả những gì được chứa trong nó. Duy Thức Học gọi tác dụng này là trì chủng – tức là gìn giữ mọi hạt giống. Với tác dụng này, a-lại-da còn được gọi là “trì chủng thức”. Nhờ có khả năng này mà các pháp không bao giờ bị tiêu mất, mà vẫn luôn luôn tồn tại, hoặc ở trạng thái chủng tử, hoặc ở trạng thái hiện hành. Cũng vậy, những nghiệp nhân do ta tạo ra không bao giờ mất đi, mà chúng sẽ tồn tại và chờ điều kiện thuận tiện để phát hiện thành quả báo. Quả báo đó như thế nào là do tổng thể những giá trị của các nghiệp nhân. Rốt cuộc, a-lại- da là tổng thể của nghiệp; hay nói khác đi, a-lại-da là chính bản thân của nghiệp, – bởi vậy, nó cũng được gọi là “nghiệp quả thức”.

c) Tác dụng biến hiện. Biến hiện là một tác dụng vô cùng quan trọng của thức a-lại-da. Đó là khả năng làm chuyển biến các chủng tử của các pháp, làm cho chúng chín muồi, chờ có điều kiện thuận tiện là phát hiện thành hiện tượng. Duy Thức Học gọi đó là tác dụng “dị thục”, và do đó, thức a-lại-da cũng còn được gọi là “dị thục thức”.

Chủng tử của vạn pháp được chứa đựng và gìn giữ ở a-lại-da bằng cách “huân tập” (hun đúc và chồng chất). Theo cách này, đối tượng của sáu thức trước, sau khi xuất hiện trên mặt ý thức, liền rơi xuống kho chứa a- lại-da và tồn tại ở đó trong trạng thái chủng tử. Các hành động tạo nghiệp của thân, khẩu, ý cũng y như vậy. Trong khi huân tập, chứa đựng và gìn giữ, a-lại-da gồm thâu vào tự thân nó tất cả mọi pháp thiện và ác, do đó, theo Duy Thức Học, tính chất của nó là vô phú vô kí (vô phú: không bị ngăn che; vô kí: không thiện cũng không ác). Mặt khác, trong diễn trình nhận thức, tác dụng của a-lại-da là thuần túy trực giác, cho nên hình thái nhận thức của nó là hiện lượng(2) (nhưng rất thâm mật, ý thức phàm tục không thể biết được), và chỉ liên hệ với 5 tâm sở biến hành(5) trong 51 tâm sở.

Trong thời gian được chứa đựng và duy trì (tức là ở trạng thái tiềm ẩn) ở thức a-lại-da, các chủng tử vẫn không ngừng chuyển biến dưới định luật nghiệp báo. Nếu chúng không được tiếp tục nuôi dưỡng thì sẽ bị yếu dần đi, khó phát hiện thành hiện hành, hoặc có thể bị đồng hóa bởi các chủng tử khác mạnh hơn, để cuối cùng bị tiêu mất, không còn hiện hành nữa. Nhưng nếu cứ được nuôi dưỡng, tăng cường và phát triển (nghĩa là cái quá trình chủng tử sinh hiện hành - hiện hành sinh chủng tử... được lặp đi lặp lại thường xuyên), thì một lúc nào đó chúng sẽ chín muồi để có thể phát hiện thành các hiện tượng. Các tác dụng huân tập, cất chứa, duy trì và làm chín muồi các chủng tử của thức a-lại-da được thực hiện vô cùng sâu kín, cái thấy của ý thức không thể nào soi thấu được.

Tính chất của chủng tử là chuyển biến không ngừng, và vì a-lại-da chính là tổng thể của các chủng tử, nên a-lại-da cũng không ngừng chuyển biến. Tuy biến chuyển như vậy, a-lại-da vẫn luôn luôn là một dòng liên tục, hoạt động không bao giờ gián đoạn. Vì vậy, Duy Thức Học nói bản chất của a-lại-da là hằng chuyển (vừa liên tục vừa thay đổi). Đó là tính chất căn bản và vô cùng quan trọng của thức a-lại-da, bởi vì, nếu không có tính chất này thì sẽ không có gì cả, không có vạn pháp, không có vũ trụ, không có sự sống...

Vì a-lại-da – cũng tức là chủng tử – là hằng và chuyển, cho nên vạn pháp cũng là một dòng liên tục, không có gì mất đi. Sự sinh diệt của một đời sống (hữu tình hoặc vô tình) chẳng qua chỉ là một lần thay đổi trong quá trình biến chuyển của cả dòng sống. Khi một cá nhân chết đi, những nghiệp nhân (chủng tử) hàm chứa trong a-lại-da vẫn tiếp tục chuyển biến, và sẽ chín muồi vào một lúc nào đó, rồi từ a-lại-da chúng sẽ hiện hành thành một sinh mạng (chánh báo) mới, trong một môi trường sống (y báo) mới.

Tùy theo bản chất và giá trị của tổng thể nghiệp lực, sinh mạng có thể được sinh ra ở một trong ba cõi (tam giới)(10), hoặc ở vào một trong mười địa (thập địa) của Bồ-tát hạnh(11). Khi có một đoạn sinh diệt như vậy xảy ra – nghĩa là khi có sự chuyển đổi từ một sinh mạng này sang một sinh mạng khác, thức a-lại-da lúc nào cũng bỏ đi sau cùng (sau khi các thức khác đã bỏ đi), và tới trước tiên (để an lập và phát hiện các thức khác); vì theo Duy Thức Học, a-lại-da là thức nền tảng, là “chủ nhân ông” của mọi thức khác.

Đường lối theo đó thức a-lại-da thác sinh vào các môi trường sống (3 cõi và 10 địa) cũng rất thâm diệu, ý thức không thể nào rõ thấu được.

Vì thức a-lại-da là hằng chuyển, cho nên theo phương pháp tu tập của giáo lí Duy Thức, hành giả có thể vừa không tiếp tục cho huân tập các chủng tử ô nhiễm (vô minh, tà dục) vào a-lại-da, vừa ngăn ngừa không cho các chủng tử ô nhiễm có sẵn trong a-lại-da tái hiện hành. Trong lúc đó, hành giả tiếp tục cho huân tập vào a-lại-da các chủng tử thanh tịnh (thiện, trong sáng, vươn tới từ bi, giác ngộ) và thường xuyên tạo điều kiện thuận lợi cho các chủng tử trong sạch có sẵn trong a-lại-da có dịp hiện hành. Các chủng tử ô nhiễm nếu không được nuôi dưỡng, bồi đắp thì dần dần sẽ bị yếu đi, bị lấn áp, thay đổi, đồng hóa và tiêu diệt bởi các chủng tử thiện. Bằng cách đó, a-lại-da sẽ không tiếp tục bị ô nhiễm mà dần dần sẽ được chuyển đổi sang trạng thái hoàn toàn thanh tịnh. Theo Duy Thức Học, khi hành giả tu tập và đạt đến địa thứ bảy (trong 10 địa) của Bồ-tát hạnh thì ý thức sẽ an trú được trong sự thông suốt về tính không của ngã và pháp, tà kiến vô thức về sự tồn tại của ngã hoàn toàn bị tiêu diệt, và lúc đó thức mạt-na liền được tách rời ra khỏi a-lại-da; hay nói cách khác, a-lại-da bấy giờ được thoát khỏi vòng tay của mạt-na, không còn làm đối tượng chấp ngã cho thức này nữa. Tuy nhiên, phải đợi đến khi đạt được địa thứ tám thì ý thức mới đủ khả năng tiêu diệt hoàn toàn tà kiến vô thức về sự tồn tại của pháp; theo đó, mọi vô minh và tà dục hoàn toàn tan biến, mọi chủng tử trở nên thuần túy thanh tịnh, và các thức đều chuyển thành tuệ giác giác ngộ: thức a-lại-da chuyển thành đại viên cảnh trí, thức mạt-na chuyển thành bình đẳng tánh trí, ý thức chuyển thành diệu quan sát trí, và năm thức cảm giác chuyển thành thành sở tác trí.(6)

Trong tám thức như vừa trình bày trên thì thức a-lại-da là thức nền tảng, căn bản, Duy Thức Học gọi nó là “căn bản thức”; bảy thức còn lại: mạt-na, ý, nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt và thân, đều được chuyển hiện, sinh khởi từ căn bản thức, cho nên chúng được gọi là “chuyển thức”. Mặc dù có tám thức nhưng về tác dụng thì chúng có ba tác dụng chính yếu: - Tác dụng chứa đựng, gìn giữ hạt giống và chuyển biến, phát hiện thành hiện hành – tức là tác dụng DỊ THỤC, là vai trò của thức a-lại-da, cho nên thức này cũng được gọi là TÂM; - Tác dụng suy nghĩ, so đo, tính toán, chấp ngã – tức là tác dụng TƯ LƯƠNG, là vai trò của thức mạt-na, cho nên thức này cũng được gọi là Ý; - Tác dụng tri giác, phân biệt đối với trần cảnh – tức là tác dụng LIỄU BIỆT CẢNH, là vai trò của sáu thức trước, cho nên sáu thức này còn được gọi là THỨC. Sự phân chia có tám thức như trên chỉ là một phương tiện để dễ tìm hiểu những mặt khác nhau của thức; nó không phải là cố định như thế. Thực ra, tám thức ấy chỉ là tám tác dụng, tám hành trạng, hay tám cách biểu hiện của nhận thức, chứ không phải là “tám cái tâm” riêng rẽ, biệt lập. Tuy là có tám thức, nhưng mỗi thức đều liên hệ mật thiết đến các thức khác; tuy một mà là tám, tuy tám mà là một, cho nên chúng cũng có thể thu về một mối, đó là THỨC – tức là CĂN BẢN THỨC, hay A-LẠI-DA THỨC. Một cách tổng quát, chúng ta có thể nói: Thức có ba tác dụng: tác dụng thứ nhất là tàng (hay dị thục), tác dụng thứ hai là tư lương, và tác dụng thứ ba là liễu biệt cảnh. Các kinh luận không chuyên về “duy thức”, thường dùng những tên gọi như TÂM, Ý, THỨC, hay NGHIỆP THỨC để chỉ cho phần “tinh thần” – khác với phần “thân thể” – của chúng sinh.

 

CHÚ THÍCH 

(1) Xin xem mục “Sáu Giác Quan, Sáu Đối Tượng của Giác Quan, và Sáu Thức” ở trước, và mục “Một Trăm Pháp” ở sau.

(2) Xin xem lại mục “Ba Hình Thái Nhận Thức” ở trước.

(3) Xin xem lại mục “Ba Cảnh” ở trước.

(4) Xin xem lại mục “Ba Tính” ở trước.

(5) Xin xem mục “Một Trăm Pháp” ở sau.

(6) Xin xem lại mục “Bốn Trí Tuệ” ở trước.

(7) Xin xem lại mục “Sáu Giác Quan, Sáu Đối Tượng của Giác Quan, và Sáu Thức” ở trước.

(8) Xin xem lại mục “Bốn Phiền Não” ở trước.

(9) Chỉ ở hai cõi Dục và Sắc thì đối tượng của a-lại-da mới gồm đủ danh và sắc, còn ở cõi Vô-sắc thì chỉ có danh mà thôi.

(10) Xin xem lại mục “Ba Cõi” ở trước.

(11) Xin xem mục “Mười Địa” ở sau.

 

TÁM TRAI GIỚI

(bát trai giới - bát giới trai - bát quan trai giới)

 

Chữ “trai” nghĩa là làm cho tâm ý được thanh tịnh; chữ “giới” nghĩa là ngăn ngừa không để cho thân khẩu ý gây điều lầm lỗi. Có cả thảy tám giới. Những giới này giúp cho hành giả đóng bớt được những cánh cửa giác quan để ngăn chận các phiền não, tội lỗi, đó là ý nghĩa của chữ “quan”. Tám trai giới là một phương tiện lập ra để giúp người cư sĩ tại gia có cơ hội sống 24 giờ đồng hồ (trọn một ngày đêm) trong chùa theo cuộc sống li dục, thanh tịnh, chánh niệm của người xuất gia. Trong 24 giờ đó, Phật tử phải ăn chay và giữ gìn tám giới sau đây:

1. Không giết hại.

2. Không trộm cắp.

3. Không dâm dục (khác với “không tà dâm” của Năm Giới).

4. Không nói dối.

5. Không uống rượu và dùng các chất ma túy.

6. Không dùng dầu thơm, son phấn.

7. Không nằm giường nệm sang quí.

8. Không ăn ngoài giờ ấn định. 

(Muốn biết cách thực tập, xin xem sách Đạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hằng Ngày của Nhất Hạnh.)   

....................................

 

SỐ 9

 

 

 

 

 

CHÍN CÕI (cửu địa - cửu hữu)

 

 

 

 

 

 

 

Chín cõi chỉ là một cách phân chia khác của “ba cõi” hay “sáu nẻo”, đều chỉ cho cái vòng sinh tử luân hồi. Chín cõi ấy là:

 

 

 

 

 

1. Ngũ thú tạp cư địa: Cõi của năm loài có dục vọng cùng ở chung với nhau. Năm loài này là: Trời cõi Dục, Người, Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh. Nói cách khác, đây tức là cõi Dục, một trong ba cõi đã đề cập ở trước. Cõi Dục là nơi cư trú chung của năm loài tâm đầy dục vọng, cho nên danh từ Phật học cũng gọi cõi này là “Dục-giới ngũ-thú địa”.     

 

 

 

 

2. Li sinh hỉ lạc địa: Cõi của chúng sinh do vừa thoát li khỏi cõi Dục đầy xấu ác khổ đau, nên tâm sinh niềm hỉ lạc; đó tức là cõi trời Sơ-thiền của cõi Sắc.

 

 

3. Định sinh hỉ lạc địa: Ở trên cõi trời Sơ-thiền là cõi trời Nhị-thiền. Chúng sinh ở cõi này, do an trú thường trực trong thiền định mà sinh niềm hỉ lạc thù thắng; cho nên gọi là “Định-sinh-hỉ-lạc địa”.

4. Li hỉ diệu lạc địa: Ở trên cõi trời Nhị-thiền là cõi trời Tam-thiền. Chúng sinh ở cõi này, do an trú trong thiền định thâm sâu mà bỏ được niềm vui có tính tự mãn của hai cõi trước, tâm trở nên an tĩnh hơn, niềm vui thanh thoát hơn; cho nên gọi là “Li-hỉ-diệu-lạc địa”.

5. Xả niệm thanh tịnh địa: Trên cùng của Sắc-giới là cõi trời Tứ-thiền. Chúng sinh ở cõi này, do an trú trong thiền định thâm sâu hơn nữa, nên dứt hẳn các niềm hỉ lạc của ba cõi dưới, sống trong cảnh giới thanh tịnh, tĩnh lặng, bình đẳng, sáng suốt; cho nên gọi là “Xả-niệm-thanh-tịnh địa”.

6. Không vô biên xứ địa: Tiến lên Vô-sắc giới, cõi trời đầu tiên là Không-vô-biên-xứ. Chúng sinh ở cõi này vừa thoát khỏi cái khung vật chất của Sắc giới để an trú trong thiền định không hình tướng, đầy tính tự tại của cảnh giới hư không vô biên; cho nên ở đây được gọi là “Không-vô-biên-xứ địa”.

7. Thức vô biên xứ địa: Tiếp đến là cõi trời Thức-vô-biên-xứ, là cảnh giới thiền định thứ hai của cõi Vô-sắc, chúng sinh được an trú trong cảnh giới mà thức hoàn toàn trải rộng trong không gian và thời gian vô hạn; cho nên gọi là “Thức-vô-biên-xứ địa”.

8. Vô sở hữu xứ địa: Ở trên cõi trời Thức-vô-biên-xứ là cõi trời Vô-sở-hữu-xứ, cảnh giới thiền định thứ ba của cõi Vô-sắc. Chúng sinh ở cõi này dứt bỏ được tính giao động của hai cõi trước, an trú trong cảnh giới mà tư tưởng hoàn toàn vắng lặng, không còn đến một niệm sở hữu; cho nên cảnh giới đó được gọi là “Vô-sở-hữu-xứ địa”.

9. Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa: Trên cùng của Vô-sắc giới là cõi trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; nơi đó, chúng sinh an trú trong cảnh giới thiền định cao tột của ba cõi, không còn niệm phân biệt có tư tưởng hay không có tư tưởng, không thiên có, không thiên không, hoàn toàn bình đẳng, an tịnh, cho nên gọi là “Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ địa”.

Tất cả 9 cõi này đều do nghiệp lực của chúng sinh mà hiện hữu, và đều có chúng sinh tồn tại, nên cũng được gọi là “chín hữu” (cửu hữu).

 

CHÍN ĐIỀU KIỆN GIÚP THỨC PHÁT SINH (cửu duyên sinh thức)

Vạn pháp do thức mà biểu hiện, nhưng thức cũng phải nương vào các điều kiện (duyên) mới phát sinh được. Thức gồm có 8 tác dụng: thấy (nhãn thức), nghe (nhĩ thức), ngửi (tị thức), nếm (thiệt thức), xúc chạm (thân thức), phân biệt (ý thức), suy nghĩ tính toán (mạt-na thức), chứa đựng tất cả chủng tử vạn pháp (a-lại-da thức). Các thức này muốn phát sinh, cần nương vào 9 điều kiện sau đây:

1. Ánh sáng (minh duyên). Đây là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đèn, hay bất cứ vật gì có thể phát sinh ra ánh sáng. Có ánh sáng thì mọi vật mới lộ rõ hình tướng, màu sắc, và nhờ đó mà con mắt mới thấy được. Không có ánh sáng thì mắt không thấy được gì cả, cho nên, ánh sáng là điều kiện giúp cho nhãn thức phát sinh.

2. Khoảng không gian (không duyên). Không gian không có gì chướng ngại, nhờ đó mà sắc tướng của mọi vật mới hiện rõ ra, giúp cho mắt thấy được đối tượng; nếu một vật được áp sát vào mắt (tức không có một khoảng cách cần thiết nào), thì mắt không thế thấy vật ấy được. Âm thanh cũng nhờ không gian mà chuyển động từ nơi này đến nơi khác, nhờ đó mà tai nghe được tiếng; tức là, tai cũng cần một khoảng không gian cần thiết thì mới nghe được tiếng, nếu một tiếng phát ra sát màng nhĩ, thì tai đã không nghe được mà màng nhĩ còn có thể bị hư hại. Vì vậy, không gian là điều kiện giúp cho nhãn thức và nhĩ thức phát sinh.

3. Giác quan (căn duyên). Thân thể con người có 5 căn (giác quan): nhãn (mắt), nhĩ (tai), tị (mũi), thiệt (lưỡi), và thân (thân thể nói chung). Nhãn thức nương nơi nhãn căn mới có thể thấy biết, nhĩ thức nương nơi nhĩ căn mới có thể nghe biết, tị thức nương nơi tị căn mới có thể ngửi biết, thiệt thức nương nơi thiệt căn mới có thể nếm biết, thân thức nương nơi thân căn mới có thể xúc biết. Bởi vậy, 5 thức phải nương vào 5 căn mới có thể sinh khởi tác dụng, nếu không có 5 căn thì 5 thức không thể phát sinh; cho nên, 5 căn là điều kiện giúp cho 5 thức phát sinh.

4. Cảnh (cảnh duyên). Cảnh, hay trần cảnh, là chỉ cho 5 đối tượng của 5 giác quan, là sắc, thanh, hương, vị, và xúc. 5 căn nhãn, nhĩ, tị, thiệt, và thân, tuy có cái biết (thức) thấy, nghe, ngửi, nếm, và xúc biết, nhưng nếu không tiếp xúc với đối tượng của chúng là 5 cảnh, thì thức không thể phát sinh được;  cho nên, 5 cảnh là điều kiện giúp cho 5 thức phát sinh.

5. Tâm sở tác ý (tác ý duyên). Tác ý là một loại tâm sở, là một hiện tượng tâm lí có tác dụng kích thích, làm cho 5 thức (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân) chú ý, nhận biết lập tức đối tượng và dẫn tới ý thức khởi niệm phân biệt đối tượng ấy. Khi mắt (nhãn căn) vừa đối trước một vật (sắc cảnh) thì tâm sở tác ý này làm cho mắt nhận biết (nhãn thức) ngay, và mách bảo cho ý thức (thức thứ sáu) biết để khởi niệm phân biệt tốt xấu, lành dữ v.v... Khi các căn nhĩ, tị, thiệt và thân vừa đối trước đối tượng của chúng cũng vậy, đều nhờ có tâm sở tác ý mà nhận biết, rồi ý thức cũng nương nơi đó mà khởi niệm phân biệt. Cả 6 thức (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, và ý) đều nương nơi tâm sở tác ý mới có thể khởi sinh tác dụng, cho nên, tâm sở tác ý là điều kiện giúp cho 6 thức phát sinh.

6. Căn bản y (căn bản y duyên). Chữ  “căn bản” ở đây là chỉ cho thức a-lại-da (tức thức thứ tám); chữ “y” nghĩa là nương dựa. A-lại-da là thức căn bản của tất cả các thức. 6 thức nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý nương nơi tướng phần của thức a-lại-da (tức là sum la vạn tượng) mà phát sinh; trong khi đó, tướng phần của thức a-lại-da cũng nương nơi 6 thức này mà hiện khởi; cho nên, căn bản y là điều kiện giúp 6 thức và thức thứ tám sinh khởi.

7. Nhiễm tịnh y (nhiễm tịnh y duyên). “Nhiễm tịnh y” là chỉ cho thức mạt-na (tức thức thứ bảy). Tất cả các pháp nhiễm hay tịnh đều nhờ thức mạt na mà chuyển. 6 thức nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, đối trước 6 trần cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, khởi sinh các phiền não hoặc nghiệp; đó gọi là pháp “nhiễm”. Các pháp ô nhiễm này được mạt-na thức chuyển vào a-lại-da thức thành các chủng tử hữu lậu. Nếu 6 thức tu tập các đạo phẩm thanh tịnh, đó gọi là pháp “tịnh”. Các pháp thanh tịnh này được mạt-na thức chuyển vào a-lại-da thức thành các chủng tử vô lậu. Vì gồm đủ cả nhiễm cả tịnh, nên gọi là “nhiễm tịnh y”. Lại nữa, thức mạt-na cũng y vào thức a-lại-da mới có thể chuyển; còn thức a-lại-da thì lại y nơi thức mạt-na mà tùy duyên; cả hai cùng nương nhau, dựa nhau, bởi vậy, nhiễm tịnh y là điều kiện giúp cho cả 8 thức, (từ nhãn thức cho đến a-lại-da thức) sinh khởi tác dụng.

8. Phân biệt y (phân biệt y duyên). “Phân biệt y” là chỉ cho ý thức (tức thức thứ sáu). Ý thức là thức có khả năng phân biệt để biết rõ sự khác nhau của vạn pháp trong vũ trụ, nào pháp thuộc về sắc, pháp thuộc về tâm; nào pháp thiện, pháp ác; nào cái hay, cái dở, cái dơ, cái sạch; v.v... Năm căn nhãn, nhĩ, v.v... tiếp xúc với 5 cảnh mà sinh khởi 5 cái biết (thức), nhưng phải nhờ ý thức phân biệt mới biết rõ các hình sắc xấu đẹp, các âm thanh hay dở, v.v... Sự nhiễm, tịnh của mạt-na thức cũng phải nhờ ý thức phân biệt mới biết rõ. Tướng phần của a-lại-da thức (sum la vạn tượng) cũng phải nhờ sức phân biệt của ý thức mới hiển lộ rõ ràng. Thậm chí, ý thức cũng phải nhờ sức phân biệt ấy mà biết rõ những ý tượng, những ảnh tượng ở trong chính bản thân nó. Cho nên, phân biệt y là điều kiện giúp cho cả 8 thức sinh khởi tác dụng.

9. Chủng tử (chủng tử duyên). Thức a-lại-da hàm chứa chủng tử của vạn pháp, hay nói cách khác, tất cả các căn, cảnh và thức đều do từ chủng tử hàm chứa trong thức a-lại-da mà phát hiện ra. Nhãn thức nương nơi chủng tử của nhãn căn mà có thể thấy sắc; nhĩ thức nương nơi chủng tử của nhĩ căn mà có thể nghe tiếng; tị thức nương nơi chủng tử của tị căn mà có thể ngửi mùi; thiệt thức nương nơi chủng tử của thiệt căn mà có thể nếm vị; thân thức nương nơi chủng tử của thân căn mà có thể xúc biết; ý thức nương nơi chủng tử của ý căn mà có thể phân biệt; mạt-na thức nương nơi chủng tử nhiễm tịnh mà được tương tục không gián đoạn; a-lại-da thức nương nơi chủng tử hàm chứa trong chính nó mà biểu hiện ra vạn pháp; tất  cả các thức đều nương nơi chủng tử mà sinh khởi tác dụng, cho nên, chủng tử là điều kiện giúp cho 8 thức sinh khởi.

 

 

 

CHÍN LỖ (cửu khổng)

 

 

 

 

 

 

 

Khắp thân thể con người có chín lỗ, qua đó, các chất dơ bẩn từ bên trong tiết ra ngoài; gồm có: 2 lỗ con mắt (tiết ra nước mắt, ghèn); 2 lỗ mũi (tiết ra nước mũi); 2 lỗ tai (tiết ra ráy tai); miệng (tiết ra nước miếng, đờm); lỗ tiểu tiện (tiết ra nước tiểu); và lỗ đại tiện (tiết ra phân).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHÍN PHÁP GIỚI (cửu giới - cửu pháp giới)

 

 

 

 

 

 

 

Chín pháp giới tức là 9 cảnh giới của mọi loài hữu tình trong vũ trụ, gồm có 6 cảnh giới của phàm phu (Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Bàng-sinh, A-tu-la, Người và Trời) và 3 cảnh giới của thánh nhân (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát). (Xin xem lại mục “Một Niệm Ba Ngàn” ở trước.)

 

 

 

 

 

 

 

CHÍN PHẨM HOA SEN (cửu phẩm liên hoa)

 

 

 

 

 

 

 

 Theo giáo lí của tông Tịnh Độ (một tr

 

 

 

 

 

ong các tông phái Phật giáo đại

 

 

 

 

thừa) thì trong vũ trụ có một thế

 

 

giới tên là Cực-lạc (hay Tịnh-độ),

là quốc độ của đức Phật

A Di Đà. Sở dĩ có tên như vậy

là vì quốc độ ấy hoàn toàn trong

sạch, đẹp đẽ (từ các loài

hữu tình cho đến các loài vô

tình), hoàn toàn an vui, hạnh phúc, trí

tuệ cao diệu, sống lâu vô lượng,

chứ không phải xấu xa, dơ bẩn, sinh

sinh tử tử, đầy dẫy tham sân

si phiền não, ngập tràn đau khổ xót

xa như thế giới chúng ta hiện sống

ở đây. Theo đại nguyện của đức

Phật A Di Đà thì bất cứ chúng

sinh nào cũng có thể cầu được

vãng sinh về thế giới Cực-lạc

của Ngài, và khi đã được

vãng sinh về đó thì sẽ luôn luôn

có được các hoàn cảnh và

điều kiện thuận lợi để tu tập

thẳng đến quả vị giác ngộ, vĩnh

viễn không bao giờ bị luân chuyển

trở lại vào các thế giới khổ

đau. Muốn được vãng sinh về Tịnh-độ,

hành giả trước hết phải có ý

chí, phải có tâm tha thiết mong cầu vãng

sinh, và sau đó là chuyên cần tu tập

tịnh nghiệp làm nhân tốt cho việc vãng

sinh. Chúng sinh ở cõi Tịnh-độ được

hóa sinh từ hoa sen, và tùy theo tịnh

nghiệp nhiều ít của mỗi người

mà sẽ được vãng sinh về ở

một trong chín bậc hoa sen cao thấp khác nhau,

gọi là “chín phẩm hoa sen”. Chín

phẩm hoa sen này do đặt trên căn bản ba loại căn tánh của hành giả mà phân chia: Đó là căn tánh bậc thượng, căn tánh bậc trung và căn tánh bậc hạ. Mỗi loại căn tánh đó lại chia làm 3 bậc thượng, trung, hạ; cho nên có cả thảy là 9 phẩm.

Tóm lại, 9 phẩm hoa sen gồm có 3 cấp: trên (thượng),

giữa (trung), dưới (hạ); và mỗi

cấp lại chia làm ba bậc: cao (thượng),

vừa (trung), thấp (hạ), như sau:

1. Bậc cao của cấp trên (thượng phẩm thượng sinh - thượng thượng phẩm): Đây là bậc cao nhất trong 9 phẩm hoa sen. Để được vãng sinh về bậc này, hành giả tu pháp môn Tịnh Độ, trước tiên phải phát khởi 3 tâm: 1) tâm chí thành, 2) tâm tin sâu, 3) tâm hồi hướng phát nguyện; thứ đến phải tu tập 3 tịnh nghiệp: 1) giữ lòng từ bi không sát sinh, hành trì trọn vẹn giới luật đã thọ, 2) đọc tụng kinh điển đại thừa, 3) tu hành 6 niệm (xin xem lại mục “Sáu Niệm Tưởng” ở trước). Hành giả tinh tấn dũng mãnh, đến giờ phút lâm chung, đức Bồ-tát Quán Thế Âm bưng đài kim cang, cùng với đức Bồ-tát Đại Thế Chí, đến trước hành giả, đức Phật A Di Đà phóng ánh sáng lớn chiếu đến thân thể hành giả, và hành giả liền được đức Phật cùng với hai vị Bồ-tát đưa tay tiếp dẫn.

2. Bậc vừa của cấp trên (thượng phẩm trung sinh - thượng trung phẩm): Dưới bậc thượng thượng phẩm là bậc thượng trung phẩm. Để được vãng sinh về bậc này, hành giả cũng phát khởi 3 tâm (như trên), tuy không thọ trì đọc tụng và tu hành theo giáo pháp đại thừa, nhưng hiểu rõ đệ nhất nghĩa đế, tin sâu lí nhân quả; thì đến giờ phút lâm chung, đức Phật A Di Đà, hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, cùng vô lượng đại chúng, bưng đài bằng vàng y, đến trước hành giả, đưa tay tiếp dẫn.

3. Bậc thấp của cấp trên (thượng phẩm hạ sinh - thượng hạ phẩm): Dưới bậc thượng trung phẩm là bậc thượng hạ phẩm. Để được vãng sinh về bậc này, tuy hành giả không thể thọ trì đọc tụng và hiểu rõ nghĩa lí của giáo pháp đại thừa, nhưng tin sâu lí nhân quả; thì đến giờ phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, và chư thánh chúng, cầm hoa sen vàng, hóa hiện ra 500 vị Hóa Phật, đến trước hành giả đưa tay tiếp dẫn.

4. Bậc cao của cấp giữa (trung phẩm thượng sinh - trung thượng phẩm): Đây là bậc cao nhất của cấp giữa, tiếp dưới bậc thượng phẩm hạ sinh. Để được vãng sinh về bậc này, hành giả hành trì trọn vẹn 5 giới, thường tu 8 trai giới, không tạo tội ngũ nghịch, không lầm lỗi. Đến giờ phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng, phóng luồng ánh sáng sắc vàng kim, chiếu đến hành giả. Hành giả trông thấy như thế, tâm sinh vui mừng, tức thì thấy thân mình ngồi trên đài hoa sen.

5. Bậc vừa của cấp giữa (trung phẩm trung sinh - trung trung phẩm): Tiếp dưới bậc trung thượng phẩm là bậc trung trung phẩm. Để được vãng sinh vể bậc này, hành giả tu 8 trai giới trọn một ngày một đêm, hoặc hành trì trọn vẹn giới sa di hay giới cụ túc trong một ngày một đêm, oai nghi tề chỉnh không thiếu sót. Đến giờ phút lâm chung, hành giả thấy được đức Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng phóng luồng ánh sáng sắc vàng kim, bưng đài sen bảy báu đến tiếp dẫn.

6. Bậc thấp của cấp giữa (trung phẩm hạ sinh - trung hạ phẩm): Người thiện nam hay tín nữ nào, trong đời sống hằng ngày, hết lòng hiếu dưỡng cha mẹ, làm các việc nhân nghĩa giúp ích cho đời; rồi đến giờ phút lâm chung lại có duyên gặp được thiện tri thức nói cho nghe về cõi nước an vui của đức Phật A Di Đà, cùng 48 lời nguyện của tì kheo Pháp Tạng; người ấy chí thành tin tưởng, muốn vãng sinh, thì liền được vãng sinh về bậc trung hạ phẩm này.

7. Bậc cao của cấp dưới (hạ phẩm thượng sinh - hạ thượng phẩm): Người làm nhiều nghiệp ác, phỉ báng kinh điển đại thừa, không bao giờ biết hổ thẹn, nhưng đến giờ phút lâm chung, nếu có cơ duyên gặp được thiện tri thức nói cho nghe tên 12 bộ kinh đại thừa, và được dạy cho cách chắp tay xưng niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”; người ấy nghe kinh và xưng niệm danh hiệu Phật rồi, liền dứt trừ được tội chướng trong trăm nghìn kiếp. Lúc bấy giờ, hóa thân của đức Phật A Di Đà cùng hóa thân của hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đồng đến tiếp dẫn, người ấy liền được vãng sinh về hoa sen bậc này.

8. Bậc vừa của cấp dưới (hạ phẩm trung sinh - hạ trung phẩm): Người hủy phạm 5 giới, 8 giới, và cụ túc giới, ăn cắp vật dụng của tăng chúng, nói pháp bất tịnh, mà tâm không biết hổ thẹn, đến giờ phút lâm chung, lửa ở địa ngục liền ập tới bức bách; nhưng ngay lúc đó, nếu có cơ duyên gặp được thiện tri thức tán thán uy đức của đức Phật A Di Đà, người ấy liền dứt trừ được tội chướng sinh tử trong 80 ức kiếp, lửa địa ngục trở thành hơi mát mẻ, thổi các hoa trời, trong những hoa đó đều có hóa thân Phật và chư vị Bồ-tát đồng đến tiếp dẫn, liền được vãng sinh về hoa sen bậc này.

9. Bậc thấp của cấp dưới (hạ phẩm hạ sinh - hạ hạ phẩm): Đây là bậc thấp nhất trong 9 phẩm hoa sen. Người tạo tội ngũ nghịch, thập ác, không điều ác gì mà không làm; nhưng đến giờ phút lâm chung, nếu có cơ duyên gặp được thiện tri thức xót thương an ủi, nói cho nghe Phật pháp nhiệm mầu, dạy cho phép niệm Phật. Người ấy liền vui vẻ, đem tâm chí thành, cố gắng niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” liên tiếp 10 lần, thì cứ mỗi niệm dứt trừ được tội chướng sinh tử trong 80 ức kiếp, liền thấy có hoa sen vàng lớn như mặt trời ngay ở trước mặt; và người ấy được vãng sinh về hoa sen bậc hạ hạ phẩm ở nước Cực-lạc.

 

 

 

CHÍN PHÉP QUÁN TƯỞNG TRÊN THI THỂ (cửu tưởng quán)

 

 

 

 

 

 

 

Cửu tưởng quán là phép quán tưởng về chín tướng trạng, hay chín giai đoạn tàn hoại của thân thể con người sau khi chết; vì vậy nó cũng được gọi là “cửu tướng quán”. Đây là một trong các phép quán tưởng về bất tịnh mà người tu học thực tập để diệt trừ các vọng tưởng tham dục và đạt được an lạc, giải thoát. Cả chín phép quán tưởng đều tập trung vào thân thể của con người sau khi chết. Hành giả có thể quán tưởng ngay chính thân thể của mình, của thân nhân mình, hay của bất cứ một người nào khác. Tốt nhất là nên quán tưởng thi thể ấy đang nằm nơi đồng trống, từng bước tuần tự như các liệt kê ở sau đây:

 

 

 

 

 

* Phật Quang Đại Tự Điển liệt kê: 1. Quán tử thi trở nên bầm xanh; 2. Quán tử thi bị rữa, máu mủ rịn ra từ chín lỗ; 3. Quán tử thi sinh giòi tửa, bị chim thú ăn thịt; 4. Quán tử thi sình chương lên; 5. Quán máu mủ từ tử thi chảy ra lênh láng trên mặt đất; 6. Quán tưởng da thịt bầy nhầy, rữa nát; 7. Quán tưởng da thịt tiêu hết, chỉ còn xương gân vương vãi; 8. Quán tưởng tử thi bị thiêu đốt thành tro bụi; 9. Quán tưởng tử thi chỉ còn là một đống xương trắng tản mác.

 

 

 

 

* Tam Tạng Pháp Số ghi: 1. Quán tưởng tử thi sình chương lên; 2. Quán tưởng tử thi bầm xanh; 3. Quán tưởng tử thi da thịt bầy nhầy, đầu mình tay chân rã rời, phủ tạng rữa nát; 4. Quán tưởng tử thi, từ đầu đến chân, máu mủ chảy tràn lan; 5. Quán tưởng giòi mủ từ chín lỗ của thi thể tứa ra, da thịt nát bấy, vương vãi trên mặt đất, hôi thúi cùng cực; 6. Quán tưởng tử thi bị giòi bọ rúc rỉa, chim thú kéo đến mổ xé tơi bời; 7. Quán tưởng tử thi tan rã, gân đứt, xương lìa, đầu chân mỗi cái mỗi nơi; 8. Quán tưởng thi thể hoàn toàn tiêu hết da thịt, chỉ còn đống xương trắng phơi bày, rời rã; 9. Quán tưởng thi thể bị lửa thiêu đốt, cuối cùng chỉ còn tro bụi.

 

 

* Luận Đại Trí Độ ghi: 1. Quán tưởng thi thể sình chương; 2. Quán tưởng thi thể rã hoại; 3. Quán tưởng thịt máu tràn lan; 4. Quán tưởng mủ máu chảy khắp, rất là hôi thúi; 5. Quán tưởng thi thể xanh bầm; 6. Quán tưởng thi thể bị giòi trùng rúc ăn, chim thú mổ xé; 7. Quán tưởng gân xương đứt lìa, rời rạc mỗi thứ mỗi chỗ; 8. Quán tưởng thi thể bây giờ chỉ còn là xương trắng, vương vãi khắp nơi; 9. Quán tưởng thi thể bị lửa thiêu đốt, biến thành tro than.

* Sách Con Đường Chuyển Hóa (kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm) của Nhất Hạnh ghi: 1. Xác chết sình lên, xanh lại, thối nát ra; 2. Xác chết bị các loài giòi bọ rúc rỉa, bị quạ, diều hâu, kên kên và chó sói rừng xé ăn; 3. Xác chết chỉ còn là một bộ xương dính ít thịt và máu; 4. Chỉ còn là một bộ xương, hết thịt nhưng còn dính máu; 5. Chỉ còn là một bộ xương, không còn dính máu, nhưng các đốt xương còn dính vào nhau; 6. Chỉ còn một đống xương rời rạc; nơi này là xương ống tay, nơi kia là xương ống chân, nơi nọ là đầu lâu...; 7. Chỉ còn một đống xương trắng màu vỏ ốc; 8. Chỉ còn một mớ xương khô; 9. Xương đã mục, chỉ còn lại một mớ bụi.

Các liệt kê trên có chút ít khác biệt về thứ tự cũng như về các chi tiết. Do đó chúng ta thấy, tuy nói là “cửu tưởng quán”, thật sự, những đề mục quán tưởng không nhất thiết là có con số nhất định, có thể là 9, 10, hay nhiều hơn nữa; miễn là những đề mục ấy thuận theo một thứ tự hợp lí từ lúc bắt đầu cho đến lúc chấm dứt, cốt làm cho thấy rõ cái tính chất bất tịnh của thân xác con người. Một cách phổ thông, 9 phép quán tưởng ấy tuần tự như sau:

1. Quán tưởng để thấy thi thể trương phình lên.

2. Thấy thi thể đổi màu, trở thành xanh tím.

3. Thấy thi thể bắt đầu bị thối rữa.

4. Thấy máu, nước vàng... chảy ra.

5. Thấy từng mảnh thịt thối rã ra.

6. Thấy thi thể bị các loài chim, thú rứt rỉa.

7. Thấy đầu, mình, tay chân của thi thể rời ra.

8. Thấy xương trắng vương vãi lăn lóc trên đất.

9. Thấy xương thịt trở thành đất bụi, gió thổi bay đi, trở về với đất bụi.

 

.................................................

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SỐ 10
 


MƯỜI BA LA MẬT (thập ba la mật)
Mười ba la mật tức mười độ, hay mười pháp qua bờ, cũng gọi là mười thắng hạnh, tức là 10 đức thù thắng mà các hành giả Bồ-tát thừa phải có đầy đủ trước khi đạt được thành quả giác ngộ hoàn toàn. 10 thắng hạnh này gồm sáu pháp qua bờ, và thêm vào bốn pháp qua bờ nữa là phương tiện, nguyện, lực và trí, được phối hợp với tiến trình tu tập của hàng Bồ-tát cấp Mười-địa. Nói cách khác, mười ba la mật là mười thành quả mà hàng Bồ-tát ở cấp Mười-địa đạt được do công năng tu tập, theo thứ tự như sau:
1. Thí ba la mật: Gồm tài, pháp và vô úy thí; là thành quả của Bồ-tát bậc Sơ-địa (Hoan-hỉ-địa).
2. Giới ba la mật: Không hại sinh mạng, hành trì giới luật để thường tự tỉnh sát; là thành quả của bậc Nhị-địa (Li-cấu-địa);
3. Nhẫn ba la mật: Dứt hết giận hờn, không hủy nhục chúng sinh, nhẫn nhục trước mọi hoàn cảnh cần phải nhẫn; là thành quả của bậc Tam-địa (Phát-quang-địa);
4. Tinh tấn ba la mật: Tinh cần tu tập không phút nào xao lãng; là thành quả của bậc Tứ-địa (Diễm-tuệ-địa);
5. Thiền ba la mật: Thường giữ chánh niệm cho tâm an định; là thành quả của bậc Ngũ-địa (Nan-thắng-địa);
6. Bát nhã ba la mật: Trí tuệ thấy rõ thật tướng của các pháp, thấu suốt diệu lí bình đẳng; là thành quả của bậc Lục-địa (Hiện-tiền-địa);
7. Phương tiện ba la mật: Dùng mọi phương pháp để khai mở trí tuệ, hiểu rõ mọi cách thức giúp ích cho chúng sinh; là thành quả của bậc Thất-địa (Viễn-hành-địa);
8. Nguyện ba la mật: Thường giữ tâm nguyện cứu độ chúng sinh, nói pháp vi diệu, biện tài vô ngại; là thành quả của bậc Bát-địa (Bất-động-địa);
9. Lực ba la mật: Có năng lực phân biệt rõ chân ngụy, tu dưỡng các hạnh lành thực tiễn, giúp chúng sinh dứt bỏ tà kiến; là thành quả của bậc Cửu-địa (Thiện-tuệ-địa);
10. Trí ba la mật: Trí tuệ biết rõ tất cả các pháp, giữ vững trung đạo, không chán sinh tử, không ham niết bàn, có lòng xả rộng lớn; là thành quả của bậc Thập-địa (Pháp-vân-địa).

MƯỜI BẬC THÁNH (thập thánh)
10 bậc Bồ-tát ở cấp Mười-địa (từ Sơ-địa cho đến Thập-địa), được gọi là “10 bậc thánh”. (Xin xem mục “Mười Địa” ở dưới.)

MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU (thập ngưu đồ - thập mục ngưu đồ)
Đây là mười bức họa trâu biểu tượng cho hành trình tu chứng của người tu học, rất được phổ biến trong các chùa, am, thiền viện, Phật học viện và viện đại học Phật giáo ở các nước Phật giáo Bắc truyền. – Lấy đề tài “chăn trâu” để biểu trưng cho công phu tu tập của người tu học, đó không phải là sự kiện mới lạ, mà đã từng được chính đức Thế Tôn sử dụng trong khi Ngài còn tại thế; về sau, khi Thiền tông hưng thịnh, nó lại trở thành một trong những thiền án mà quí vị tổ sư thường dùng để khai thị cho các đệ tử. – Những bức tranh chăn trâu này xuất hiện ở Trung-hoa, không biết đích xác là vào thời nào, chỉ biết chắc chắn là chúng đã được thịnh hành từ thế kỉ XII (dưới triều đại nhà Tống). Tranh chăn trâu xuất hiện rất nhiều bộ, bộ nào cũng gồm có mười bức. Tất nhiên, những bộ tranh này không phải do một người vẽ, mà đã do nhiều người, nhưng người vẽ đầu tiên là ai thì không biết được. Tuy có rất nhiều bộ tranh chăn trâu khác nhau, nhưng tựu trung có thể xếp thành hai loại: loại theo khuynh hướng Đại thừa và loại theo khuynh hướng Thiền tông.

A. Tranh Đại Thừa.
Bộ tranh chăn trâu có khuynh hướng đại thừa được truyền tụng nhất hiện nay là bộ bắt đầu bằng bức “Chưa Chăn” (vị mục) và kết thúc bằng bức “Vắng Hết” (song dẫn). Tranh vẽ con trâu đen (tượng trưng cho tâm mê vọng) và người chăn trâu (tượng trưng cho hành giả). Lần lượt qua từng bức tranh, màu đen của trâu sẽ chuyển biến dần thành màu trắng, trước tiên là cái đầu, lan dần đến thân mình, và cuối cùng là đuôi trâu, nói lên rằng, nhờ trải qua nhiều công phu tu tập mà cái tâm vọng động, cấu nhiễm của hành giả dần dần được gạn lọc mà sáng dần lên trên nấc thang giác ngộ. Tóm lại, mười bức tranh chăn trâu ở đây là một đường biểu diễn của công trình điều phục tâm ý của hành giả trên đường giải thoát, giác ngộ. Mười bức tranh đó chắc chắn là do các thiền sư vẽ, nhưng, như trên đã nói, không biết đích xác là của ai, chỉ biết rằng, thiền sư Phổ-Minh (? - ?) là người đã sáng tác mười bài thi tụng (mỗi bài cho một bức tranh) để nói lên ý nghĩa sâu xa của chúng.

1. Chưa chăn (vị mục).

Tranh vẽ một con trâu toàn đen đang chạy nhảy lung tung, và chú mục đồng vừa đuổi theo vừa đưa nắm cỏ non để dụ nó. Lúc này hành giả mới bắt đầu phát tâm tu học, tâm ý hãy còn buông lung theo trần cảnh, nên phải cố gắng tìm cách “bắt” tâm lại.

2. Mới chăn (sơ điều).

Tranh vẽ người chăn trâu đã dùng dây thừng xỏ và cột được mũi trâu, và bắt đầu “trị” cho trâu thuần; mũi trâu đã chuyển màu đen thành trắng. Lúc này hành giả biết quay về nương tựa nơi Ba Ngôi Báu, nguyện gìn giữ giới luật và tu học nghiêm túc để cho tâm ý không còn xao lãng, phóng túng theo dục vọng.

3. Chịu phép (thọ chế).

Tranh vẽ con trâu đã hết hung hăng và chịu khuất phục, trọn cái đầu của trâu đã chuyển thành trắng; và chú mục đồng dắt trâu đi nhẹ nhàng, không còn phải dùng sức lực lôi kéo hay roi vọt đánh đập nữa. Tuy vậy, chú vẫn giữ chắc sợi dây xỏ mũi và tay chưa dám bỏ cây roi. Nhờ quyết lòng tu tập, giới hạnh nghiêm túc mà giờ đây hành giả thấy tâm ý mình có phần định tĩnh, sáng suốt, nhẹ nhàng hơn. Được vậy là nhờ hành giả thường trực quán sát và nhận diện dòng tâm ý đang trôi chảy của mình.

4. Quay đầu (hồi thủ).

Tranh vẽ con trâu đã chuyển sang màu trắng đến nửa thân mình. Nhờ chăn giữ lâu ngày, bây giờ trâu đã dần dần thuần thục, không còn giống như trâu “hoang” nữa. Chú mục đồng không còn phải mệt nhọc “trị” nó nữa, mà có thể cột nó vào gốc cây và hưởng được chút nhàn hạ. Hành giả ngày càng sống với chánh niệm thường xuyên hơn, theo sát và thấy rõ tâm ý mình hơn, không một hoạt động nào của tâm mà qua lọt được con mắt quán niệm của hành giả.

5. Ngoan ngoãn (tuần phục).
Tranh vẽ trâu đã trắng đến hết lưng và bụng, đã được chú mục đồng cởi bỏ sợi dây, vì trâu đã hoàn toàn thuần thục, không còn lo lắng gì nữa. Hành giả lúc này đã hoàn toàn điều phục tâm ý mình, hoàn toàn sống trong tỉnh thức. Tâm ý đã thanh tịnh, nhẹ nhàng, thanh thoát, hành giả thật an lạc, thấy được sự mầu nhiệm của cuộc sống, chung quanh mình cái gì cũng tươi đẹp, dễ thương.

6. Không ngại (vô ngại).
Tranh vẽ người chăn trâu ngồi thổi sáo nơi gốc tùng, trâu ngoan ngoãn nằm nghe, khắp thân mình đã chuyển sang màu trắng; chỉ có cái đuôi là còn đen. Hành giả lúc này hoàn toàn tĩnh lặng, không cần dụng công điều phục mà tâm ý an nhiên tự tại.

7. Mặc ý (nhậm vận).

Tranh vẽ chú mục đồng thản nhiên nằm ngủ dưới gốc cây, còn trâu thì mặc tình rong chơi gặm cỏ, toàn thân trắng toát, từ chóp mũi đến chót đuôi không còn một vết đen nào. Bởi tâm đã an nhiên tự tại, không còn bị chướng ngại, nên tất cả những kiến chấp sai lạc về ngã (tức bốn thứ phiền não: ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái) nơi hành giả giờ đây cũng bị gột sạch; tuy nhiên, những tà kiến về pháp vẫn còn, sự giải thoát chưa được trọn vẹn.

8. Quên nhau (tương vong).
Trong tranh vẫn còn có trâu và mục đồng, nhưng trâu đã quên mất sự có mặt của mục đồng, mà mục đồng cũng quên mất sự có mặt của trâu. Hành giả cố gắng tiến lên mãi, và giờ đây thì tất cả mọi tà kiến vô thức về sự tồn tại của ngã cũng như của pháp đều dứt sạch.

9. Chiếc bóng (độc chiếu).
Con trâu trong tranh không còn trông thấy nữa, người chăn trâu một mình đứng giữa thiên nhiên. Tâm hành giả bây giờ đã trở thành “vô tâm”, mọi niệm phân biệt đều dứt sạch, không còn có trong - ngoài, có - không, sinh - diệt, tâm - cảnh, dơ - sạch v.v...; tự tính chân như của vạn hữu tỏ lộ ra trước mắt.

10. Vắng hết (song dẫn).

Tranh không còn gì cả, chỉ xuất hiện một hình tròn đầy đặn và trống rỗng. Tuệ giác hoàn toàn sáng tỏ, giải thoát trọn vẹn, không còn lời gì có thể nói về mức chứng ngộ tột cùng của hành giả, chỉ diễn tả tượng trưng bằng một hình tròn viên mãn.

B. Tranh Thiền Tông.
Thiền tông chủ trương “chỉ thẳng vào chân tâm, thấy được tính là tức khắc thành Phật” (trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật), cho nên, khác với tranh đại thừa ở trên, tranh Thiền tông vẽ con trâu trước sau chỉ có một màu: trắng hoặc đen. Tuy nhiên, tranh trâu trắng thì hiếm thấy vì ít được thưởng thức, trong khi đó, tranh trâu đen được phổ cập hơn, vì nó có vẻ hùng mạnh nhưng mộc mạc, gần gũi với cuộc sống hơn. Bộ tranh chăn trâu được mọi người thưởng thức nhiều nhất là của thiền sư Thanh Cư (? - ?), diễn tả tiến trình tu tập của hành giả, bắt đầu bằng công việc “tìm trâu” và kết thúc bằng “cả trâu và người đều mất” (biểu trưng bằng hình vẽ một vòng tròn trắng). Như thế là chỉ có tám bức họa. Sau đó, thiền sư Tắc Công (? - ?) vẽ thêm bức thứ chín là “Trở về nguồn cội” (phản bổn hoàn nguyên); rồi cuối cùng, thiền sư Từ Viễn (? - ?) lại vẽ nốt bức thứ mười là “Thõng tay vào chợ” (nhập triền thùy thủ). Cả bộ tranh mười bức này về sau lại được thiền sư Quách Am (đời thứ 15 dòng Lâm Tế) làm cho mỗi bức một bài thi tụng, có kèm lời dẫn giải để nói lên ý nghĩa của mỗi bức tranh.
Ghi chú: Những dẫn giải về mỗi bức họa sau đây (phần in chữ nghiêng) là của chính thiền sư Quách Am (Tuệ Sỹ dịch – trích từ sách Thiền Qua Tranh Chăn Trâu của Trúc Thiên và Tuệ Sỹ).

1. Tìm trâu (tầm ngưu).

Trâu chưa xuất hiện trong bức tranh mở đầu này, mà chỉ có hình ảnh chú mục đồng đang đi tìm trâu. Tâm của hành giả vẫn có đó, nhưng lâu nay cứ rong ruổi chạy theo dục vọng trần cảnh, sống buông trôi trong quên lãng; bây giờ bắt đầu cuộc đời tu tập theo hạnh tỉnh thức, hành giả mới trở lại đi tìm “tâm” của mình. Nhưng, xưa nay đâu có mất, săn tìm chi? Bởi, quay lưng với Giác mà thành ra lỏng lẻo; sấn bước vào Trần nên mới bị mất đi. Từ đó, quê hương càng lúc càng diệu vợi, mà đường sá lại gập ghềnh. Cái lẽ được và mất đã cháy bừng bừng; phải và quấy mọc lên tua tủa.

2. Thấy dấu (kiến tích).

Đến đây người chăn trâu vừa phát hiện ra dấu chân của trâu. Hành giả đang ở những bước đầu của công phu thiền quán; vì biết “dừng lại”, biết nắm giữ hơi thở, nên đã có được vài giây phút sống với chánh niệm. Mò kinh để thấy nghĩa, học giáo để tìm ra tung tích. Rõ, bao khí dụng chỉ một chất vàng, hết thảy tạo vật là chính ta cả. Chính tà khỏi lựa, chân ngụy khỏi phân. Bởi chưa vào được cửa đó, nên mượn tiếng kêu là “thấy dấu”.

3. Thấy trâu (kiến ngưu).

Lúc này người chăn trâu đã trông thấy được con trâu. Hành giả đã có tiến bộ trong công phu tu tập, sống với nếp sống tỉnh thức thường xuyên hơn, đã cảm thấy vững chắc hơn trên con đường giới định tuệ. Theo tiếng mà vào, ghé mắt là thấy. Cửa sáu căn tỏ rõ không nhầm; ngay nơi động dụng rành rành hiển lộ. Chất mặn trong nước, chất xanh trong màu. Vén lông mày lên, là nó chứ ai!

4. Được trâu (đắc ngưu).
Người chăn trâu đã bắt được trâu. Hành giả đang nỗ lực điều phục và làm chủ tâm ý mình, không để bị níu kéo theo những vọng tưởng tà kiến. Ông cố gắng nhận diện tất cả những tâm sở phiền não để tìm cách chuyển hóa chúng, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho những chủng tử giác ngộ có nhiều cơ hội hiện hành. Từ lâu, vùi lấp ngoài đồng hoang, hôm nay đã gặp mi. Bởi cảnh đẹp nên khó lòng đuổi, đắm say cỏ non hoài mãi không thôi. Cứng đầu còn quá lắm, tính buông lung chưa hết. Muốn cho chịu phép mọi bề, cần cho roi vọt.

5. Chăn trâu (mục ngưu).
Người chăn trâu đã bắt được trâu, dùng dây thừng xỏ mũi và dắt nó đi theo mình. Hành giả lúc này đã hoàn toàn có được chánh niệm trong lúc thiền tập. Hành giả quán chiếu và thấy rõ một cách thường xuyên dòng tâm ý đang trôi chảy của mình; hay nói cách khác, đây là giai đoạn “dùng tâm quán sát tâm”. Trong những khi đi đứng nằm ngồi, không lúc nào hành giả đánh mất chánh niệm. Niệm trước vừa khởi, niệm sau tiếp theo. Bởi đã Giác nên thành Chân. Bởi tại mê, hóa ra vọng. Chẳng phải do cảnh mà có, nhưng chính do tâm mà sinh. Xỏ mũi, cùm đầu, không chần chờ gì nữa.

6. Cưỡi trâu về nhà (kị ngưu qui gia).

Người chăn trâu ngồi trên lưng trâu, khoan thai thổi sáo, thong thả trở về nhà. Lúc này hành giả đã hoàn toàn làm chủ được tâm ý mình, không lay động, không chướng ngại. Con đường giác ngộ dẫn về “bản lai chân diện mục” đã được thắp sáng và bày ra trước mặt, hành giả cứ hướng theo đó mà trở về. Đã hết cuộc can qua, đã rồi câu được mất. Hát bài ca đồng của anh đốn củi, thổi điệu khúc quê của chú bé con. Vắt mình trên trâu, mắt mở nhìn mây vời vợi. Kêu réo, không quay đầu; kéo lôi, cũng chẳng dừng bước.

7. Quên trâu còn người (vong ngưu tồn nhân).
Trâu đã mất dạng, chỉ còn người chăn. Sau khi đã trở về với “bản lai chân diện mục”, hành giả thường trực an trú trong tuệ giác về tính “không” của vạn hữu; tâm của hành giả cũng tức là hành giả, đâu có gì khác nhau! Thân, Tâm chỉ là một. Pháp không là pháp phân hai, mắt trâu là tông chỉ. Mượn tiếng “bẫy thỏ” để dụ cho dị danh; lấy chữ “dò cá” để nêu cái sai biệt. Như vàng ròng rút ra từ đáy quặng; như trăng tỏ vén khỏi cụm mây. Một đạo hàn quang qua khỏi kiếp Uy Âm vô thỉ.

8. Người trâu đều quên (nhân ngưu câu vong).

Cả trâu và người chăn trâu đều mất dạng. Hành giả thường trực an trú trong tuệ giác về tính “không” của vạn hữu, và tiến đến nấc thang cao tột của tuệ giác giác ngộ: những tà kiến vô thức về sự tồn tại của NGÃ và PHÁP hoàn toàn bị tiêu diệt. Buông bỏ tình phàm thì ý thánh cũng không. Chỗ có Phật cũng không thèm rong chơi, chỗ không Phật cũng không thèm ngó lại. Không vướng đầu này hay đầu nọ, không liếc xéo nơi này hay nơi kia. Hàng trăm con chim ngậm hoa, thẹn sao là thẹn!

9. Trở về nguồn cội (phản bản hoàn nguyên).
Tuệ giác siêu việt đã đạt được, hành giả trở về an trú trong trạng thái “niết bàn tịch tịnh”, giải thoát trọn vẹn khỏi mọi ý niệm có không, sinh diệt, đến đi, thêm bớt, khổ vui, mê ngộ, chứng đắc và đối tượng chứng đắc. Bản lai thanh tịnh, không vướng một mảy trần. Quán sát vẻ tươi và héo của những gì là hữu tướng, an thân trong cảnh ngưng tịch của đạo vô vi. Không đồng với huyễn hóa, cần gì phải tu, phải trị. Nước biếc, non xanh, ngồi mà xem cuộc thành bại

10. Thõng tay vào chợ (nhập triền thùy thủ).
Với hạnh nguyện độ sinh của một vị Bồ-tát, và với hành trang “bi-trí-dũng” đã sẵn sàng, hành giả lên đường nhập thế, dùng mọi phương tiện trí, lực để hóa độ chúng sinh. Khép cánh cửa sài, một mình một bóng, dù thánh hiền vạn cổ cũng không hay. Chôn vùi cái văn vẻ của riêng ta, bỏ lại lối mòn của cổ đức. Mang bầu vào chợ, chống gậy về nhà, hàng rượu hàng cá, dạy cho thành Phật hết.

 
MƯỜI DANH HIỆU (thập hiệu – Như Lai thập hiệu)
 Mỗi đức Phật đều có danh hiệu riêng, có ý nghĩa riêng, gọi là biệt hiệu. Ngoài biệt hiệu đó ra, tất cả chư Phật cùng có đầy đủ mười tôn hiệu chung, xin nêu tên và ý nghĩa như sau:
1. Như Lai. “Như” nghĩa là đạo như thật, tức là tất cả pháp tánh. Pháp thân của Phật từ nơi đạo như thật mà đến, cho nên Phật có tôn hiệu là “Như Lai”.
2. Ứng Cúng. Phật đã đoạn trừ trọn vẹn ba loại hoặc, vĩnh viễn thoát khỏi hai loại sinh tử, muôn đức tôn nghiêm, phước tuệ đầy đủ, xứng đáng với sự cúng dường của khắp chín cõi, – mà người cúng dường lại còn được phước, cho nên Phật có tôn hiệu là “Ứng Cúng”.
3. Chánh Biến Tri. Ngoại đạo chấp trước vào hai cái thấy đoạn diệt và thường hằng, sự hiểu biết của họ chỉ là tà vạy chứ không chính đáng; hàng nhị thừa thì đam trước vào “không”; hàng Bồ-tát thì chưa đạt đến tận cùng nguồn gốc. Các hạng trên tuy có thấy biết nhưng không biến khắp, chỉ có cây đưốc trí tuệ của Phật mới chiếu soi tất cả các pháp, không những chân chánh mà còn biến khắp, cho nên Phật có tôn hiệu là “Chánh Biến Tri”.
4. Minh Hạnh Túc. “Minh” là ba minh, tức thiên nhãn minh, túc mạng minh, và lậu tận minh; “hạnh” là năm hạnh, tức thánh hạnh, phạm hạnh, thiên hạnh, anh nhi hạnh, và bệnh hạnh. Ba minh thuộc về tuệ, năm hạnh thuộc về phước. Phật có phước tuệ đầy đủ, cho nên có tôn hiệu là “Minh Hạnh Túc”.
5. Thiện Thệ. “Thiện” là tốt, “thệ” là đi. Phật tu tập theo con đường chân chánh để rồi vào cõi niết bàn; tức là Ngài đã hướng đến nơi tốt đẹp để đi tới, cho nên có tôn hiệu là “Thiện Thệ.”
6. Thế Gian Giải. Đức Phật hiểu rõ tất cả mọi tình huống của thế gian cũng như xuất thế gian, cho nên Ngài có tôn hiệu là “Thế Gian Giải”.
7. Vô Thượng Sĩ. Trong tất cả các pháp thì niết bàn là vô thượng; trong loài người thì Phật là vô thượng; trong các thành quả thì chánh giác là vô thượng; chúng sinh trong chín cõi đều không so sánh được với Phật, cho nên Ngài có tôn hiệu là “Vô Thượng Sĩ”.
8. Điều Ngự Trượng Phu. Phật là đấng đại trượng phu, có khả năng điều phục, chế ngự mọi ma chướng trong khi tu hành chánh đạo, cho nên Ngài có tôn hiệu là “Điều Ngự Trượng Phu”.
9. Thiên Nhân Sư. Phật là bậc đạo sư của cả trời và người, cho nên có tôn hiệu là “Thiên Nhân Sư”.
10. Phật Thế Tôn. Phật là bậc giác ngộ trọn vẹn, đầy đủ cả tự giác, giác tha, phước đức hoàn toàn, bậc tam thừa xuất thế gian và sáu loài phàm phu trong thế gian đều cùng tôn kính, cho nên có tôn hiệu là “Phật Thế Tôn”.

MƯỜI DÂY RÀNG BUỘC (thập triền)
“Ràng buộc” là không được tự do tự tại; ở đây có nghĩa là bị trói chặt, bị giam hãm trong ngục tù sinh tử, trong vòng kiềm tỏa của luân hồi, không được giải thoát. Sở dĩ như vậy là bởi do mười “dây” phiền não sau đây:
1. Lầm lỗi mà không biết tự xấu hổ (vô tàm)
2. Không biết tự thẹn khi thấy người khác có giới hạnh trong sạch hơn mình (vô quí)
3. Ganh ghét (tật)
4. Bỏn sẻn, keo kiệt (xan)
5. Tiếc rẻ (hối)
6. Ham ngủ (thụy miên)
7. Không an tĩnh (trạo cử)
8. Tối tăm, không tỉnh táo (hôn trầm)
9. Giận dữ, hung hãn (phẫn)
10. Che giấu lỗi lầm (phú)

MƯỜI ĐẠI NGUYỆN (thập đại nguyện)
Đây là 10 hạnh nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền:
1. Thường kính lễ chư Phật (lễ kính chư Phật).
2. Thường khen ngợi công đức viên mãn của các đức Như Lai (xưng tán Như Lai).
3. Thường thờ phụng và đem tâm cúng dường tối thượng để cúng dường chư Phật (quảng tu cúng dường).
4. Thường sám hối các nghiệp xấu mình đã tạo ra từ vô thỉ đến nay, và tinh cần giữ gìn giới luật (sám hối nghiệp chướng).
5. Thường tùy hỉ các công đức của chư Phật, Bồ-tát, thánh nhân, cho đến của tất cả các loài chúng sinh phàm phu trong sáu nẻo luân hồi (tùy hỉ công đức).
6. Thường thỉnh chư Phật, chư vị pháp sư thuyết pháp để cho Phật pháp tồn tại mãi ở thế gian (thỉnh chuyển pháp luân).
7. Thường thỉnh chư Phật, chư Bồ-tát thánh chúng không nhập niết bàn, thị hiện lâu dài ở thế gian để thuyết pháp cứu độ chúng sinh (thỉnh Phật trụ thế).
8. Vĩnh viễn nguyện theo Phật để tu học (thường tùy Phật học).
9. Thường tùy thuận mọi yêu cầu của chúng sinh trong mục đích hóa độ bình đẳng (hằng thuận chúng sinh).
10. Tất cả công đức có được do thực hành 9 hạnh nguyện trên, xin đem hồi hướng cho tất cả chúng sinh, để hoàn thành đại nguyện thành Phật (phổ giai hồi hướng).
10 hạnh nguyện trên đây vô cùng rộng lớn, được nói rõ trong phần chót (tức quyển 40) của kinh Tứ Thập Hoa Nghiêm (cũng tức là bộ kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm) do pháp sư Bát Nhã dịch ra Hán văn vào thời đại nhà Đường.

MƯỜI ĐỊA (thập địa)
“Địa” ở đây là địa vị, là giai tầng tu chứng trên bậc thang giác ngộ. Mười địa là mười giai tầng tu chứng, có nhiều loại, hoặc được lập riêng cho hàng Thanh-văn (Thanh-văn thập địa), hoặc hàng Duyên-giác (Duyên-giác thập địa), hoặc hàng Bồ-tát (Bồ-tát thập địa), hay Phật thừa (Phật thập địa). Ngoài ra còn có mười địa được lập chung cho cả ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát – gọi là Tam-thừa cộng thông thập địa); ở đây xin đề cập đến hai loại căn bản nhất:
A. Mười Địa của Ba Cỗ Xe (tam thừa thập địa).
Theo Đại Trí Độ Luận và tông Thiên Thai của Trí Giả đại sư, đây là cái thang giác ngộ có 10 giai tầng tu chứng được lập chung cho ba cỗ xe (tam thừa) Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát:
 1. Càn tuệ địa (trí tuệ khô cạn). Đây là địa vị của một hành giả khi mới phát tâm tu hành. Vì chưa được thấm nhuần dòng nước Phật pháp cho nên trí tuệ của hành giả hãy còn khô cạn.
2. Tánh địa (thấy tính). Ở địa vị này hành giả bắt đầu thấy được tính Phật nơi tự thân mình.
3. Bát nhẫn địa (an trú nơi tám sự quán ngộ). Chữ “nhẫn” nghĩa là chịu đựng; và chịu đựng ở đây có nghĩa là an trú vững chắc nơi thật tướng của vạn pháp mà lòng không bị giao động, chán nản. Ở địa vị này, hành giả luôn luôn vận dụng trí tuệ để quán chiếu (quán) thật tướng của vạn pháp và nhận chân (ngộ) được chân lí “Bốn Sự Thật”, lần lượt trải qua tám trình độ quán ngộ (bát nhẫn) như sau:
1) Quán ngộ về “khổ đế” ở cõi Dục.
2) Quán ngộ về “tập đế” ở cõi Dục.
3) Quán ngộ về “diệt đế” ở cõi Dục.
4) Quán ngộ về “đạo đế” ở cõi Dục.
5) Quán ngộ về “khổ đế” ở hai cõi Sắc và Vô-sắc.
6) Quán ngộ về “tập đế” ở hai cõi Sắc và Vô-sắc.
7) Quán ngộ về “diệt đế” ở hai cõi Sắc và Vô-sắc.
8) Quán ngộ về “đạo đế” ở hai cõi Sắc và Vô-sắc.
4. Kiến địa (thấy rõ chân lí). Hành giả đã chứng ngộ chân lí “Bốn Sự Thật” ở khắp ba cõi, tâm ý hoàn toàn tự do, không còn bị kiềm tỏa bởi các tà kiến, và bắt đầu được dự vào “dòng Thánh”, tức là Tu-đà-hoàn, quả vị thấp nhất trong bốn quả vị của cỗ xe Thanh-văn (Thanh văn thừa).
5. Bạc địa (gần kề). Ở địa vị này, hành giả tu tập và diệt trừ được phần lớn những phiền não căn bản của cõi Dục, tương đương với Tư-đà-hàm, quả vị thứ hai trong bốn quả vị của cỗ xe Thanh-văn. Với quả vị này, hành giả còn phải tái sinh vào cõi Dục một lần nữa để tiếp tục tu tập.
6. Li dục địa (rời khỏi cõi Dục). Ở địa vị này, hành giả tu tập và diệt trừ hoàn toàn các phiền não gốc rễ của cõi Dục, cho nên vĩnh viễn không còn tái sinh vào cõi Dục nữa, tương đương với A-na-hàm, quả vị thứ ba trong bốn quả vị của cỗ xe Thanh-văn.
7. Dĩ biện địa (đã hoàn tất). Ở địa vị này, hành giả tu tập và dứt sạch hoàn toàn phiền não của cả ba cõi, chứng được các phép mầu nhiệm, vượt thoát khỏi ba cõi, tương đương với A-la-hán, quả vị cao nhất của cỗ xe Thanh-văn.
8. Bích-chi Phật địa (Duyên-giác). Ở địa vị này hành giả dùng trí tuệ tự mình quán chiếu nguyên lí “mười hai nhân duyên” mà được giác ngộ và thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Phật Bích-chi hay Phật Độc-giác là quả vị chứng đắc của cỗ xe Duyên-giác (Duyên giác thừa).
9. Bồ-tát địa. Địa vị A-la-hán và Phật Bích-chi cũng đã là những địa vị giác ngộ, nhưng mới chỉ được phần tự lợi, nên chưa phải là giác ngộ trọn vẹn. Muốn đạt được quả vị giác ngộ trọn vẹn, cao tột thì hành giả phải phát tâm tu tập hạnh Bồ-tát. Pháp môn tu tập chính yếu của hành giả ở địa vị này là “sáu phép qua bờ” (lục độ), và hạnh nguyện chính yếu ở địa vị này là “độ sinh”.
10. Phật địa. Khi thành quả tối hậu của địa vị Bồ-tát (tự lợi và lợi tha, hay tự giác và giác tha) đã đạt được viên mãn thì hành giả chứng đắc địa vị cao quí tột bực của sự nghiệp giác ngộ là địa vị Phật-đà.

B. Mười Địa của Bồ Tát.
Riêng hàng Bồ-tát, trong quá trình tu tập từ khi phát tâm cho đến khi thành tựu hạnh nguyện Bồ-tát, hành giả phải lần lượt trải qua 7 cấp (gồm 52 giai vị), mà Mười-địa là cấp thứ 5 (sau 4 cấp Mười-tín, Mười-trụ, Mười-hạnh, và Mười-hồi-hướng), gồm có 10 giai vị (từ giai vị 41 đến 50) như sau:
1. Hoan-hỉ địa (tâm ý rất vui). Sau khi đã trải qua một thời gian dài tu tập, hành giả diệt trừ được bốn phiền não mang tính chất tà kiến(1), bắt đầu thấy được tính “không” của ngã và pháp, cởi bỏ được cái tâm niệm phàm phu để hòa nhập vào “Bồ-tát thân”; vì vậy mà có được niềm vui lớn.
2. Li-cấu địa (xa rời phiền não). Ở địa vị này, hành giả tu tập và gột sạch được những cấu nhiễm của phiền não, và có được giới hạnh thanh tịnh, giới đức viên mãn.
3. Phát-quang địa (trí tuệ phát sinh). Hành giả đạt được nhẫn nhục viên mãn, thoát khỏi mê vọng, ánh sáng trí tuệ của tự tính giác ngộ bắt đầu hiển lộ.
4. Diễm-tuệ địa (trí tuệ rực rỡ). Do sự tinh tấn tu tập mà trí tuệ giác ngộ, từ chỗ bắt đầu phát sinh ở Phát quang địa, đến đây đã trở nên rực rỡ, thù thắng.
5. Nan-thắng địa (đạt được một cách khó khăn). Từ Diễm tuệ địa tiến lên được đến đây quả là một hành trình vô cùng khó khăn. Hành giả phải thường xuyên tu tập thiền định để có được một định lực thâm hậu, thấu suốt được nguyên lí “hai sự thật” (nhị đế)(2), chứng được pháp thân thanh tịnh.
6. Hiện-tiền địa (chân như hiển hiện). Ở địa vị này, hành giả tiếp tục diệt trừ các căn bản phiền não vi tế và hoàn thành việc phát triển trí tuệ cao tột, hoàn tất công hạnh tu tập “sáu phép qua bờ” (lục độ), vượt khỏi các khái niệm phân biệt giữa có và không, nhiễm và tịnh v.v..., cho nên tự tính chân như của vạn hữu tỏ lộ ra trước mắt.
7. Viễn-hành địa (đi xa). Ở đây, tâm ý của hành giả bắt đầu an trú thường xuyên trong sự thông suốt về tính “không” của ngã và pháp. Tuy tà kiến vô thức về sự tồn tại của pháp vẫn còn, nhưng tà kiến vô thức về sự tồn tại của ngã thì hoàn toàn bị tiêu diệt, phát khởi đại bi tâm và thành đạt phương tiện vô ngại trong việc độ sinh.
8. Bất-động địa (không lay động). Ở địa vị này, tà kiến vô thức về sự tồn tại của pháp nơi tâm ý hành giả cũng hoàn toàn bị tiêu diệt. Vì vậy, hành giả được an trú trong trạng thái hoàn toàn thanh tịnh mà du hành tự tại, không còn bị các ma phiền não tham sân si cũng như ngũ dục, lục trần làm cho lay động (bất động); không còn bị rơi trở lại trong các cảnh giới đau khổ (bất đọa); không còn bị thối lui vào con đường tu tập của hàng tiểu thừa (bất thối); và không còn bị bất cứ một thứ tà kiến nào làm cho tán loạn (bất tán).
9. Thiện-tuệ địa (trí tuệ diệu dụng). Hành giả thành tựu được trí tuệ biện tài vô ngại, nên có thể ra đi giáo hóa độ sinh khắp cả mười phương ba cõi, đồng thời xét đoán được những chúng sinh nào đáng được cứu độ và những chúng sinh nào không đáng được cứu độ.
10. Pháp-vân địa (mây pháp). Đây là địa vị cao tột trên đường tu tập của Bồ-tát hạnh. Ở địa vị này, hành giả có tuệ giác và muôn hạnh đầy đủ, du hành giáo hóa khắp nơi với tâm bình đẳng, không phân biệt người đáng hay không đáng được cứu độ, dường như mây lành, có thể tưới mưa cam lộ xuống khắp các nơi để làm nảy sinh thiện căn nơi tất cả chúng sinh. Có thể nói, đó chính là hóa thân của Phật.
(1) Xin xem lại mục “Bốn Phiền Não” ở trước.
(2) Xin xem lại mục “Hai Sự Thật” ở trước.

MƯỜI ĐỘNG LỰC SAI KHIẾN (thập sử)
Đây là mười loại phiền não làm động lực sai khiến, thúc đẩy chúng sinh tạo nên các hành động sai lầm, xấu xa, tội lỗi, gây đau khổ cho mình, cho người, và cho cả muôn loài; đó là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến.
10 động lực sai khiến này có thể chia làm hai nhóm: một nhóm gồm 5 loại phiền não ở phần đầu, tức tham, sân, si, mạn, nghi, gọi là “5 độn sử” (xin xem lại mục “Năm Độn Sử” ở trước); và một nhóm gồm 5 loại phiền não ở phần sau, tức thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến, gọi là “5 lợi sử” (xin xem lại mục “Năm Lợi Sử” ở trước).
Như vậy, 10 động lực sai khiến này cũng chính là 6 phiền não gốc rễ (lục căn bản phiền não – xin xem lại mục “Sáu Phiền Não Gốc Rễ” ở trước), nhưng được trình bày chi tiết hơn, cho nên chúng cũng được gọi là “10 phiền não gốc rễ” (thập căn bản phiền não).
Lại nữa, 6 phiền não gốc rễ cũng có tên là 6 tùy miên (xin xem lại mục “Sáu Tùy Miên” ở trước), cho nên, 10 động lực sai khiến này cũng được gọi là “10 tùy miên” (thập tùy miên).
Tóm lại, 10 sử cũng tức là 10 tùy miên, cũng tức là 10 căn bản phiền não, và cũng tức là 6 căn bản phiền não.

MƯỜI HẠNH (thập hạnh)
Đây cũng là 10 trong 52 giai vị trên tiến trình tu tập của hàng Bồ-tát. Chữ “hạnh” ở đây là chỉ cho các hành động lợi tha. Ở hai cấp Mười-tín và Mười-trụ, hành giả chỉ tu phần tự lợi, ở cấp Mười-hạnh (cấp thứ ba) này thì hành giả tu phần lợi tha, gồm có:
1. Hạnh Hoan-hỉ: Bồ-tát dùng vô lượng diệu đức của Như Lai mà tùy thuận ở khắp mười phương.
2. Hạnh Nhiêu-ích: Thường khéo léo làm những công việc có lợi ích cho chúng sinh.
3. Hạnh Vô-sân-hận: Tu nhẫn nhục, dứt bỏ sân hận, nhẫn nhịn với cả kẻ oán thù, giữ đức khiêm cung, không làm hại mình hại người.
4. Hạnh Vô-tận: Luôn luôn tinh tấn, phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh, cho đến khi tất cả đều chứng nhập niết bàn, không mỏi mệt, không chán nản.
5. Hạnh Li-si-loạn: Bồ-tát luôn sống trong chánh niệm, tâm không tán loạn; đối với tất cả các pháp, không lầm lẫn.
6. Hạnh Thiện-hiện: Biết không có pháp, ba nghiệp vắng lặng, không bị cái gì ràng buộc mà cũng không đắm trước vào cái gì, tuy vậy, không bao giờ từ bỏ việc giáo hóa chúng sinh.
7. Hạnh Vô-trước: Trải qua vô số cõi nước cúng dường chư Phật và cầu pháp mà tâm không bao giờ cho là đủ, tuy vậy, lúc nào cũng lấy cái tâm vắng lặng mà quán chiếu các pháp, cho nên không hề bị vướng mắc vào pháp nào cả.
8. Hạnh Tôn-trọng: Tôn trọng căn lành và trí tuệ, cho nên càng tăng tiến tu tập các hạnh tự lợi và lợi tha.
9. Hạnh Thiện-pháp: Có đủ trí giải và biện tài vô ngại, thành tựu các thiện pháp giáo hóa để giữ gìn chánh pháp, làm cho hạt giống Phật không bị dứt tuyệt.
10. Hạnh Chân-thật: Thành tựu ngôn ngữ “đệ nhất nghĩa đế”, nói thế nào làm thế ấy, làm thế nào nói thế ấy, nói và làm phù hợp nhau, sắc và tâm đồng thuận.
 
MƯỜI HẠNH NHẪN (thập nhẫn)
Trong thời kì tu hành Bồ-tát đạo, hành giả thường thực hành 10 hạnh nhẫn như sau:
1. Nội nhẫn: Bồ-tát thường nhẫn chịu những đau khổ trong thân tâm mình, không hề khởi niệm buồn lo.
2. Ngoại nhẫn: Bồ-tát thường nhẫn chịu mọi khổ não từ bên ngoài mang lại, không hề khởi niệm sân hận.
3. Pháp nhẫn: Bồ-tát nghe được giáo pháp vi diệu sâu xa mà tâm không kinh sợ, lại còn cần cầu đọc tụng.
4. Tùy Phật giáo nhẫn: Khi tâm buồn giận khởi dậy, Bồ-tát y theo lời Phật dạy mà tư duy quán chiếu: thân này nương vào đâu mà sinh? Các pháp nhân những duyên gì mà khởi? Do không tìm thấy nguyên nhân của nỗi buồn giận, không thấy được cái chỗ thân sinh, cái chỗ duyên khởi, mà cái tâm buồn giận kia tiêu mất.
5. Vô phương sở nhẫn: Bồ-tát ở bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào cũng thường sinh tâm nhẫn chịu.
6. Vô phân biệt nhẫn: Không phân biệt là người thân kẻ sơ, người trên kẻ dưới, người giàu sang kẻ nghèo hèn, tất cả đều đem tâm bình đẳng mà nhẫn chịu.
7. Bất kiến sự nhẫn: Tâm nhẫn có mặt thường trực, không phải đợi lúc đối diện với hoàn cảnh ngang trái mới khởi tâm nhẫn chịu.
8. Bất bức não nhẫn: Nếu gặp cảnh xấu, bị lăng nhục, Bồ-tát cũng nhẫn chịu được.
9. Bi tâm nhẫn: Bị chúng sinh nhục mạ, gây buồn phiền, Bồ-tát đã không dấy niệm sân hận, lại còn khởi tâm từ bi thương xót.
10. Thệ nguyện nhẫn: Bồ-tát nghĩ nhớ từ buổi ban đầu từng ở trước Phật phát nguyện cứu độ chúng sinh, ngày nay nếu sân hận buồn phiền đối với chúng sinh, thì đã không tự độ được, còn nói gì đến việc độ cho ai! Nghĩ như thế thì tâm sân hận không thể phát sinh được, mà đối với bất cứ chuyện gì Bồ-tát cũng nhẫn chịu được.

MƯỜI HỒI HƯỚNG (thập hồi hướng)
Trên tiến trình tu tập của hàng Bố-tát, Mười-tín là cấp thứ nhất; Mười-trụ là cấp thứ nhì; Mười-hạnh là cấp thứ ba; Mười-hồi-hướng này là cấp thứ tư. “Hồi hướng” nghĩa là hướng trở lại, xoay trở về, ở đây có ý nói, Bồ-tát khởi tâm đại bi, quay trở lại để cứu hộ chúng sinh. Mười-hồi-hướng cũng được gọi là Mười-hướng, gồm có 10 giai vị:
1. Hồi hướng cứu hộ tất cả chúng sinh nhưng lìa khỏi tướng chúng sinh: Thực hành sáu pháp qua bờ, bốn cách thu phục để cứu hộ chúng sinh một cách bình đẳng, không phân biệt kẻ oán người thân.
2. Hồi hướng không hoại: Đã có được một đức tin bền chắc (không hoại) nơi Tam Bảo, nay đem hồi hướng căn lành ấy đến tất cả chúng sinh, làm cho họ đạt được nhiều lợi ích an lành.
3. Hồi hướng bằng với tất cả chư Phật: Đồng với những việc làm của chư Phật trong ba đời, không đắm sinh tử, không xa rời niết bàn.
4. Hồi hướng đến tất cả mọi nơi: Lấy những căn lành tu tập được, do sức hồi hướng mà trải khắp đến tất cả mọi nơi, từ Tam Bảo cho đến chúng sinh, dùng làm các lợi ích để cúng dường và phụng sự.
5. Hồi hướng kho công đức vô tận: Tùy hỉ tất cả căn lành vô tận, hồi hướng mà làm Phật sự, để đạt được căn lành công đức vô tận.
6. Hồi hướng tùy thuận căn lành bình đẳng: Hồi hướng những căn lành tu tập được, được chư Phật gia hộ, có thể thành đạt những căn lành kiên cố.
7. Hồi hướng tùy thuận quán sát bình đẳng tất cả chúng sinh: Tăng trưởng tất cả các căn lành, hồi hướng cho lợi ích tất cả chúng sinh.
8. Hồi hướng tướng chân như: Thuận theo tướng chân như mà đem tất cả căn lành để hồi hướng.
9. Hồi hướng giải thoát, không trói buộc, không dính mắc: Đối với tất cả các pháp, không ôm giữ, không bám dính, không bị ràng buộc, đạt được tâm giải thoát, dùng các pháp lành mà hồi hướng, thực hiện hạnh Phổ Hiền, đầy đủ mọi công đức.
10. Hồi hướng pháp giới vô lượng: Tu tập tất cả căn lành vô tận, lấy đó để hồi hướng, nguyện cầu pháp giới có được vô lượng công đức.

MƯỜI MÔN MẦU NHIỆM (thập huyền môn - thập huyền duyên khởi)
Đây là giáo lí chủ yếu của tông Hoa Nghiêm. 10 môn mầu nhiệm tức là từ 10 phương diện mà nói rõ cái tướng sự sự vô ngại pháp giới trong bốn loại pháp giới (lí vô ngại pháp giới, sự vô ngại pháp giới, lí sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới), nhằm biểu thị yếu nghĩa: mọi hiện tượng trong vũ trụ tức là nhau (tương tức), ở trong nhau (tương nhập), tác dụng lẫn nhau (hỗ tương tác dụng), không chướng ngại nhau (hỗ bất tương ngại). Thông suốt được yếu nghĩa này thì có thể nhập vào đại hải huyền diệu của kinh Hoa Nghiêm, cho nên gọi là “huyền môn”. Lại nữa, 10 huyền môn này đều cùng làm điều kiện cho nhau mà khởi, cho nên cũng gọi là “duyên khởi”. Xin lược thuật 10 huyền môn ấy như sau:
1. Đồng thời cụ túc tương ứng môn: Tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ tương ứng cùng lúc, đầy đủ trọn vẹn cùng lúc, cùng y nơi lí duyên khởi mà thành lập, một và nhiều cùng một thể tánh với nhau, không có trước sau khác biệt nhau.
2. Quảng hiệp tự tại vô ngại môn: Không gian rộng hẹp có vẻ như mâu thuẫn nhau, nhưng chính sự mâu thuẫn ấy lại là môi giới để mọi hiện tượng có thể “tương tức tương nhập”; cho nên cái rộng và cái hẹp hoàn toàn tự tại viên dung, không có tính chướng ngại.
3. Nhất đa tương dung bất đồng môn: Một hiện tượng và nhiều hiện tượng dung nhiếp nhau, trong một hiện tượng có đầy đủ nhiều hiện tượng, trong nhiều hiện tượng có dung chứa một hiện tượng; một và nhiều nhập vào, ở trong nhau hoàn toàn vô ngại, nhưng tính chất và tướng trạng khác nhau của chúng vẫn không mất.
4. Chư pháp tương tức tự tại môn: Mọi sự vật tức là nhau; sự vật này tức là sự vật kia, sự vật kia tức là sự vật này; một sự vật tức là nhiều sự vật, nhiều sự vật tức là một sự vật; vật dơ tức là vật sạch, vật sạch tức là vật dơ; vật nhỏ tức là vật lớn, vật lớn tức là vật nhỏ; thô lậu tức là vi diệu, vi diệu tức là thô lậu; v.v... tất cả đều dung nhiếp nhau mà vẫn tự tại vô ngại.
5. Ẩn mật hiển liễu câu thành môn: Khi một vật có mặt, hiển lộ ra, thì nhiều vật khác ẩn kín, không có mặt; vật hiển lộ ra và nhiều vật ẩn kín ấy đều cùng chung một thể tánh, và đồng thời cùng thành lập. Một pháp và tất cả pháp là cùng một thể tánh.
6. Vi tế tương dung an lập môn: Môn này cũng nằm trong nội dung giáo lí “tương tức tương nhập”, nhưng đặc biệt nhấn mạnh về tướng của sự vật. Chữ “vi tế” có 3 ý nghĩa: - vật được chứa rất nhỏ, như hạt cải được chứa trong chiếc bình thủy tinh; - vật chứa rất nhỏ, như một vi trần chứa hằng sa thế giới; - vi tế khó biết được, như vi trần và quốc độ có thể dung chứa nhau, việc này quá vi tế nên rất khó biết. Một pháp dung nhiếp nhiều pháp, pháp nhỏ nhập trong pháp lớn; nhưng tướng một và tướng nhiều không bị hủy hoại, tướng nhỏ và tướng lớn không bị tạp loạn, trật tự tề chỉnh, cho nên gọi là “an lập”.
7. Nhân Đà La võng pháp giới môn: Sum la vạn tượng trong vũ trụ, mỗi mỗi đều hiển lộ nhau, làm thành nhau, sinh khởi nhau, trùng trùng vô tận, giống như tấm lưới treo ở cung trời Đế Thích. – Tấm lưới treo ở cung điện trời Đế Thích, mỗi mắt lưới đều có gắn ngọc minh châu. Những hạt ngọc này trong suốt, chiếu sáng lẫn nhau, hiện hình trong nhau, trùng trùng vô tận, không gian thì có hạn mà cảnh giới thì vô cùng.
8. Thác sự hiển pháp sinh giải môn: Chân lí thâm diệu khó hiểu, có thể nhìn nơi những sự vật cụ thể thông thường mà hiểu được; như thế là vì, cái ý nghĩa sâu xa của chân lí vốn đã hàm chứa sẵn trong những sự vật cụ thể thông thường. Như thế tức là, sự vật cụ thể thông thường và chân lí nó biểu hiện là một, không phải hai, không khác biệt; sự vật cụ thể tức là chân lí, chân lí tức là sự vật cụ thể.
9. Thập thế cách pháp dị thành môn: 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai, mỗi đời lại bao gồm 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai; như thế tức là, 3 đời mà hàm chứa 9 đời. 9 đời này cũng chỉ thu nhiếp vào trong một niệm hiện tiền; vậy một niệm là tổng quát, 9 đời là chi tiết, hợp tổng quát và chi tiết lại với nhau, gọi là “10 đời” (thập thế). Nhưng 10 đời ấy vẫn phân biệt rõ ràng, không hề lẫn lộn, gọi là “cách pháp”. 10 đời tuy khu biệt nhưng tương tức tương nhập; tương tức tương nhập nhưng cái tướng dài ngắn, trước sau không hề mất, gọi là “dị thành”. Thời gian vốn vô thỉ vô chung, 3 đời làm nhân quả cho nhau, dung nhiếp nhau, cho nên một niệm tức là vô lượng kiếp, vô lượng kiếp tức là một niệm; đó là tính viên dung vô ngại của thời gian.
10. Chủ bạn viên minh cụ đức môn: Mọi hiện tượng đều là duyên khởi, cho nên, hiện tượng nào được nêu lên, thì hiện tượng ấy là chủ trong lúc đó, còn tất cả các hiện tượng khác là bạn. Cứ như thế, sum la vạn tượng đều cùng nhau làm chủ làm bạn, không hề trắc trở chướng ngại. Nếu sáng tỏ trọn vẹn yếu nghĩa này, thì quán chiếu bất cứ một pháp nào cũng đều đầy đủ vô tận đức tướng.

MƯỜI NGUYỆN LỚN của BỒ TÁT PHỔ HIỀN (Phổ Hiền thập nguyện)
Phổ Hiền (có nghĩa là sự hiền đức phổ cập khắp nơi) là tên của một vị Bồ-tát lớn, thường được các kinh điển đại thừa (nhất là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa) nhắc nhở và khen ngợi. Vì lòng đại bi, ngài nguyện luôn luôn dùng mọi phương tiện để tuyên dương Phật pháp, hóa hiện mọi thân tướng để cứu độ chúng sinh, và ủng hộ tất cả những ai hành trì và hoằng dương Phật pháp. Ngài có lập mười điều nguyện lớn, được ghi trong kinh Hoa Nghiêm như sau:
1. Nguyện thường cung kính và lễ bái chư Phật (lễ kính chư Phật).
2. Nguyện thường khen ngợi công đức của chư Phật (xưng tán Như Lai).
3. Nguyện thường thực hành hạnh bố thí, cúng dường (quảng tu cúng dường).
4. Nguyện thường ăn năn các tội lỗi đã tạo ra và ngăn ngừa các tội lỗi chưa phát sinh (sám hối nghiệp chướng).
5. Nguyện thường hoan hỉ và khuyến khích những công việc có ích lợi do mọi người thực hiện (tùy hỉ công đức).
6. Nguyện thường cầu xin Phật hoằng hóa đạo pháp (thỉnh chuyển pháp luân).
7. Nguyện thường cầu xin Phật thường trú ở thế gian để chúng sinh được gội nhuần mưa pháp (thỉnh Phật trụ thế).
8. Nguyện thường theo Phật để tu học (thường tùy Phật học).
9. Nguyện thường thuận theo tâm ý của mọi chúng sinh để hướng dẫn tu học (tùy thuận chúng sinh).
10. Nguyện thường hồi hướng tất cả công đức lành cho tất cả chúng sinh đều được thành tựu đạo quả giải thoát (phổ giai hồi hướng).
Với chí nguyện tu học và phụng sự chúng sinh, hành giả lấy các hạnh nguyện trên đây làm hạnh nguyện của chính mình. Phật là đối tượng của hành giả, và “Phật” ấy nào phải ở đâu xa, mà chính là tự tính giác ngộ sẵn có nơi mình! Hãy cung kính, hãy lễ bái, hãy cúng dường v.v... cái tự tính giác ngộ ấy!

MƯỜI NIỆM TƯỞNG (thập niệm)
Chữ “niệm” nghĩa là nhớ, nghĩ đến một đối tượng, cũng tức là làm cho đối tượng đó có mặt trước tâm ý trong giây phút hiện tại. Trái lại là “thất niệm”, tức là quên lãng. Đối với người tu học Phật, NIỆM có tác dụng ngăn chận vọng tưởng, khiến cho tâm được an tịnh, không loạn động. Để đạt được mục đích đó, tâm ý phải thường tập chú (niệm) vào mười đối tượng sau đây:
1. Niệm Phật: chuyên tâm quán tưởng về thân tướng hảo và các thứ công đức của Phật.
2. Niệm pháp: Quán tưởng đến giáo pháp của Phật cùng những qui tắc tu hành.
3. Niệm Tăng: Quán tưởng đến đức hòa hợp cùng công hạnh hành đạo của tăng đoàn và chư vị thánh chúng.
4. Niệm giới: Quán tưởng về công đức trì giới có công năng ngăn ngừa nghiệp ác, thành tựu đạo hạnh.
5. Niệm thí xả: Quán tưởng công đức bố thí diệt trừ được tâm xan tham, sinh trưởng quả phúc, lợi ích chúng sinh, mà lòng không cầu mong báo đáp.
6. Niệm thiên: Quán tưởng chư thiên thành tựu thiện nghiệp, được thân tướng tốt đẹp, phước đức đầy đủ; mình cũng tu tập thiện nghiệp để được phước đức như vậy.
7. Niệm hưu tức: Quán tưởng đến chỗ ở tịch tĩnh, cắt đứt mọi hệ lụy, chuyên tu tập thánh đạo.
8. Niệm an ban: Theo dõi hơi thở dài ngắn, đếm hơi thở vào ra, nhiếp tâm vắng lặng, diệt trừ vọng tưởng.
9. Niệm thân vô thường: Quán tưởng thân này do nhân duyên giả hợp mà thành, tất cả các bộ phận trong ngoài, không có gì là chân thật, thường còn vĩnh viễn.
10. Niệm tử: Quán tưởng đời người như mộng ảo, chỉ một thời gian ngắn là tiêu hoại.

MƯỜI THỨ NHƯ VẬY (thập như thị - thập như)
“Như thị” nghĩa là như vậy, thật tướng của vạn pháp xưa nay vốn như thế, chỉ có thể dùng trí tuệ bát nhã mà quán chiếu để thấy rõ tường tận; không hỏi tại sao, không dùng ý thức để suy nghĩ, biện luận, phân biệt, lượng định, xét đoán, vì sẽ không thể thấy được gì hết. Thật tướng của các pháp xưa nay vốn có đầy đủ 10 thứ như vậy, đó là:
1. Tướng như vậy (như thị tướng). “Tướng” tức là tướng trạng, chỉ cho hình tướng bên ngoài của vạn pháp, có thể trông thấy được – như những hành vi thiện ác hiển lộ ra ngoài, có thể trông thấy được.
2. Tánh như vậy (như thị tánh). “Tánh” có nghĩa là không biến đổi, chỉ cho bản tánh nội tại của vạn pháp, mắt nhìn không thấy được; bản tánh của mỗi pháp không giống nhau. Như trong cây gỗ có sẵn tánh lửa, tánh ấy không thay đổi, nhưng mắt nhìn không thấy được; khi nào gặp duyên thì tánh lửa ấy phát hiện thành ra tướng lửa, mắt mới thấy được. Chữ “tánh” này cũng chỉ cho lí tánh, phật tánh.
3. Thể như vậy (như thị thể). “Thể” là chủ thể, là bản thể của vạn pháp, mà tướng và tánh là hai thuộc tánh của nó. “Thể” cũng là chất thể, như 5 uẩn, 12 xứ đều lấy sắc và tâm làm thể.
4. Lực như vậy (như thị lực). “Lực” là năng lực, là cái công năng tiềm tàng đầy đủ trong bản thể; như bùn, đất, cây có thể dùng làm vách tường, màu sắc dùng để vẽ hình v.v... 
5. Tác như vậy (như thị tác). “Tác” là những gì được hiển hiện ra bằng động tác, hành động; như ở con người, “tác” là những hành động (nghiệp) của thân, ngữ, ý.
6. Nhân như vậy (như thị nhân). “Nhân” là chỉ cho nguyên nhân trực tiếp của một kết quả.
7. Duyên như vậy (như thị duyên). “Duyên” là những điều kiện trợ giúp, là những nguyên nhân gián tiếp giúp cho cái nhân trực tiếp kết thành quả.
8. Quả như vậy (như thị quả). “Quả” là cái kết quả do nhân và duyên hòa hợp làm thành. Khoảng cách giữa nhân và quả có thể là đời quá khứ và đời hiện tại, hoặc đời hiện tại và đời vị lai, hoặc chỉ ngay trong đời hiện tại.
9. Báo như vậy (như thị báo). “Báo” là quả báo, tức do nghiệp nhân thiện ác ở đời trước mà chiêu cảm quả báo vui khổ ở đời sau (hoặc nhiều đời sau).
10. Bản mạt cứu cánh đẳng như vậy (như thị bản mạt cứu cánh đẳng). “Bản” là chỉ cho tướng (nói tới đầu tiên, số 1 ở trên), “mạt” là chỉ cho báo (số 9 kế trên); “cứu cánh đẳng” là rốt ráo bình đẳng. Cả 9 thứ “như thị” ở trên, từ “như thị tướng” (bản) cho đến “như thị báo” (mạt), đều do nhân duyên hòa hợp mà phát sinh, cho nên đều là không; cái “không” này chính là thật tướng đồng nhất của vạn pháp, rốt ráo bình đẳng.

MƯỜI THỨ TRÓI BUỘC (thập triền)
Đây là mười loại phiền não khởi lên từ các phiền não căn bản (tham, sân, si), thúc đẩy chúng sinh tạo các nghiệp xấu ác, rồi cứ bị trói buộc mãi trong vòng sinh tử, không thoát li ra được. Đó là các phiền não:
1. Phẫn: Gặp việc trái ý thì tức giận, làm mất chánh niệm.
2. Phú: Tính hay che dấu tội lỗi của mình.
3. Tật: Thấy người khác có đức hạnh cao thượng, được mọi người kính mến, qui hướng, thì không biết kính trọng, không gần gũi để học hỏi, lại còn ganh ghét, nói xấu, hay xa lánh.
4. Xan: Tính keo kiệt. Có tiền của thì không muốn chia sớt để cứu giúp người; có kiến thức thì không muốn san sẻ cùng người.
5. Vô tàm: Mình không có đức hạnh, luôn luôn tạo lầm lỗi mà không biết ăn năn, tự thẹn.
6. Vô quí: Thấy người khác không làm lỗi, có đức hạnh cao thượng mà không tự biết hổ thẹn.
7. Trạo (điệu) cử: Tâm niệm lúc nào cũng giao động lăng xăng, không trầm tĩnh, khiến cho không thể nào tu tập thiền quán được.
8. Hôn trầm: Tâm thần tối tăm, dật dờ, trì trệ, không nhận thức được các pháp lành.
9. Hối: Hay nghĩ nhớ về những tội lỗi đã qua, làm cho tâm lúc nào cũng bất an.
10. Miên: Ham ngủ cho nên trở thành lười biếng, tâm thần mỏi mệt, yếu đuối, không đủ sức để tự kiểm soát mình.

MƯỜI TÍN (thập tín)
Ở trong Phật pháp, các hành giả phát tâm tu hành đạo Bồ-tát, mục đích là cầu thành Phật để rộng độ chúng sinh. Trên tiến trình tu tập ấy, kể từ khi mới phát tâm (sơ phát tâm) cho đến khi thành Phật, hành giả phải tuần tự trải qua 52 bậc thang, bao gồm trong 7 cấp: Thập-tín, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập Hồi-hướng, Thập-địa, Đẳng-giác, và Diệu-giác.
Thập-tín là cấp khởi đầu của tiến trình tu Bồ-tát đạo. “Tín” là lòng tin. Trong Phật pháp, khi nói đến TÍN thì luôn luôn có nghĩa là chánh tín; vì trong đạo Phật không hề có mê tín. Tin Phật mà tin một cách mê muội, mù quáng, sai lạc, là không phải lòng tin trong đạo Phật. Vì vậy, các kinh luận đều giải thích chữ “tín” rằng: TÍN là một trong 11 tâm sở THIỆN (trong 51 tâm sở – theo tông Duy Thức). Tín là lòng tin tưởng sâu sắc vào thật thể của vạn pháp, tịnh đức của Tam Bảo và căn lành của tất cả các pháp thế và xuất thế gian, làm cho tâm được lắng đọng và trong sạch. Phật pháp sâu rộng như biển cả, muốn vào được, phải có đức tin làm bước khởi đầu. Đức tin có khả năng tiêu trừ mọi mối nghi hoặc, làm phát triển các pháp lành, là mẹ của mọi thứ công đức. Xem thế thì đức tin thật là vô cùng quan trọng đối với người tu học Phật; hơn thế nữa, TÍN phải là bước khởi đầu cho người tu tập hạnh Bồ-tát.
Cấp Thập-tín gồm có mười bậc, danh số Phật học gọi là “thập tín tâm”, hay gọi tắt là “thập tâm” hay “thập tín”, gồm có:
1. Tín tâm: một lòng tin tưởng và quyết định muốn được thành tựu.
2. Niệm tâm: tâm thường niệm tưởng đến Phật, Pháp, Tăng, giới luật, bố thí và niết bàn.
3. Tinh tấn tâm: chuyên cần tu tập các nghiệp lành.
4. Định tâm: giữ tâm tĩnh lặng, gạt bỏ những ý tưởng hư ngụy, những tưởng tượng lăng nhăng, những nhớ nghĩ vô ích.
5. Tuệ tâm: lắng nghe giáo pháp, tư duy quán chiếu, thấy tất cả pháp là vô ngã, tự tánh của các pháp là không tịch.
6. Giới tâm: thọ trì luật nghi thanh tịnh của Bồ-tát, giữ thân miệng ý trong sạch, không phạm các lỗi lầm, nếu có lỗi lầm thì hối cải.
7. Hồi hướng tâm: tất cả các căn lành tu tập được đều đem hồi hướng về quả vị bồ đề chứ không mong cầu các phước báo hữu vi, hồi hướng đến tất cả chúng sinh chứ không cho riêng mình, hồi hướng về những ích lợi thực tế chứ không cầu danh tướng hão huyền.
8. Hộ pháp tâm: phòng hộ tâm mình, không để khởi các phiền não, và bảo trì Phật pháp.
9. Xả tâm: không luyến tiếc thân mạng và tài sản, tất cả những gì có được đều buông bỏ hết.
10. Nguyện tâm: thường tu tập các tâm nguyện trong sạch.

MƯỜI TÔNG PHÁI (thập tông)
“Tông” là chủ yếu; “phái” là nhánh, dòng. Trong thời kì còn tại thế độ sinh, đức Phật đã tùy theo từng căn cơ của thính chúng mà thuyết minh vô lượng pháp môn khác nhau. Và dĩ nhiên, cũng bởi vì thính chúng có nhiều căn cơ khác nhau cho nên họ cũng lĩnh hội những pháp môn ấy một cách khác nhau. Đó là đầu mối của sự phân chia hệ phái về sau này trong giáo đoàn.  Khi có tình trạng phân phái như vậy, người khởi xướng ra một tông phái thường y cứ vào một số kinh luận (pháp môn) mà mình sở đắc để lấy đó làm yếu nghĩa chỉ đạo.
Khởi thỉ, sau khi đức Phật nhập diệt, Phật giáo Ấn-độ đã chia làm hai hệ phái lớn: Tiểu thừa và Đại thừa. Sau đó mỗi “thừa” lại chia làm nhiều nhánh nhỏ hơn. Tuy nhiên, sự phân phái của đạo Phật không giống như sự “phân hóa” với cái ý nghĩa không đẹp thường tình, nhưng đó chính là vì nhu cầu phát triển trí thức của loài người mà đạo Phật phải phát huy tính chất khế lí và khế cơ của mình để có thể hòa nhập vào môi trường xã hội mà mình đang có mặt.
Khi đạo Phật được truyền bá vào Trung-hoa, cũng nhằm phát huy cái tính chất khế lí và khế cơ ấy, Phật giáo Trung-hoa đã lần lượt thành lập nên nhiều tông phái khác nhau. Dĩ nhiên, vì tính khế cơ, một tông phái có thể được lập nên trong một hoàn cảnh nào đó, rồi đến lúc nó không còn thích nghi với hoàn cảnh hiện tại nữa thì tự nó phải biến diệt. Vì vậy, số tông phái được lập nên và thịnh hành ở Trung-hoa có lúc nhiều lúc ít, tùy thời; nhưng tựu trung thì có mười tông phái sau đây được coi là tiêu biểu:
1. Tông Câu Xá
Tông này lấy bộ luận A Tì Đạt Ma Câu Xá của đại luận sư Thế Thân (người Ấn-độ, thế kỉ thứ 5) làm yếu chỉ, chủ trương tất cả các pháp (bao gồm cả tâm và vật) đều thực có, nhưng không có một bản ngã tồn tại thường hằng bất biến. (Danh từ Phật học Hán Việt gọi chủ trương này là “ngã không pháp hữu”.) Hành giả phải thường xuyên dùng trí tuệ để quán chiếu về chân lí “bốn sự thật” để chứng nhập niết bàn – vì theo tông này, ngoại trừ cảnh giới niết bàn ra, thế gian hoàn toàn không có gì là phúc lạc.
Pháp sư Chân Đế (người Ấn-độ) đã dịch bộ luận Câu Xá từ Phạn văn ra Hán văn và truyền tông này sang Trung-hoa vào thế kỉ thứ 6 (khoảng năm 563-567). Đến thế kỉ thứ 7, bộ luận lại được pháp sư Huyền Trang (596-664) dịch ra Hán văn một lần nữa và truyền cho đệ tử là pháp sư Khuy Cơ (632-682); và chính nhờ vị này mà tông Câu Xá ở Trung-hoa được kiện toàn, trở thành một hệ thống triết học nền tảng thiết yếu cho tất cả những nhà nghiên cứu Phật học.
2. Tông Thành Thật
Tông này lấy bộ luận Thành Thật của Ha Lê Bạt  Man (người Ấn-độ,  khoảng 250-350) làm căn bản, chủ trương không có ngã mà cũng không có vạn pháp (tâm và vật) – danh từ Phật học Hán Việt gọi là “ngã pháp nhị không”. Khi hành giả quán chiếu về tính “không” của ngã và pháp thì sẽ diệt trừ được phiền não chướng và sở tri chướng, chứng nhập cảnh giới niết bàn tịch tịnh.
Bộ luận Thành Thật được pháp sư Cưu Ma La  Thập (người Ấn-độ) dịch ra Hán văn và truyền tông này sang Trung-hoa vào đầu thế kỉ thứ 5.
Hai tông Câu Xá và Thành Thật trên đây đều thuộc về truyền thống tiểu thừa. Hiện nay cả hai đều đã bị thất truyền, nhưng hai bộ luận Câu Xá và Thành Thật thì vẫn được các giới học Phật tham cứu.
Tám tông phái sau đây thuộc về truyền thống đại thừa:
3. Tông Luật
Tông này được sáng lập ở Trung-hoa vào giữa thế kỉ thứ 7 mà vị sáng tổ là luật sư Đạo Tuyên, một đệ tử nổi tiếng về luật học của pháp sư Huyền Trang. Tông này chủ trương chỉ cần thông suốt và tinh nghiêm hành trì giới luật; khi giới thể đã thanh tịnh thì định lực phát sinh; định lực đã phát sinh thì trí tuệ giác ngộ cũng bừng sáng. Luật tông đặt nền tảng trên bộ luật Tứ Phần của tiểu thừa và “tam tụ tịnh giới” của đại thừa.
4. Tông Tam Luận (cũng có các tên gọi khác là Tánh, Pháp Tánh, Không, Bát Nhã).
Tông này lấy hai bộ luận Trung Quán và Thập Nhị Môn của đại luận sư Long Thọ (người Ấn, thế kỉ thứ 2), và bộ Bách Luận của đại luận sư Đề Bà (đệ tử của ngài Long Thọ) làm căn cứ, đả phá mọi cái nhìn sự vật bằng khái niệm, bằng mê chấp và tà kiến phân biệt; và chủ trương nhìn sự vật bằng con đường trung đạo với các nguyên tắc “nhị đế” và “bát bất” (bất sinh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ) để thấy được thực tướng “như như” của chúng. Lí tưởng của nó là dẹp bỏ mọi “hí luận”, và mọi luận chứng đều được đặt nền tảng trên bốn mệnh đề (tứ cú): có (hữu), không có (không), vừa là có vừa là không có (diệc hữu diệc không), vừa không phải là có vừa không phải là không có (phi hữu phi không).
Thế kỉ thứ 5, pháp sư Cưu Ma La Thập sang Trung-hoa, dịch cả ba bộ luận trên và truyền cho đệ tử là Tăng Triệu để thành lập nên tông Tam Luận; nhưng phải chờ đến thời đại sư Cát Tạng (thế kỉ thứ 6) thì tông này mới được kiện toàn, có hệ thống và qui củ hẳn hoi.
5. Tông Thiên Thai (cũng gọi là tông Pháp Hoa).
Tông này được thành lập tại Trung-hoa vào cuối thế kỉ thứ 6 với vị tổ thứ nhất là đại sư Trí Khải (hay Trí Giả). Thực ra, vị sáng tổ của tông này phải là đại sư Huệ Văn (đầu thế kỉ thứ 6). Ngài Huệ Văn truyền cho đệ tử là đại sư Huệ Tư (514-577). Đại sư Trí Khải chính là đệ tử của đại sư Huệ Tư, nhưng vì ngài đã có một nhân cách nổi bật, một sở học uyên thâm, một trí tuệ phi thường, đương thời không ai sánh kịp, vả lại, chính ngài là người đã kiện toàn tông Thiên Thai, cho nên đã được tôn xưng là vị tổ thứ nhất của tông này.
Tông Thiên Thai lấy bộ kinh Pháp Hoa làm căn bản lập tông, và lấy bộ Đại Trí Độ Luận (của Long Thọ) làm chỉ nam cương yếu; ngoài ra còn tham khảo thêm các kinh luận liên hệ khác như các kinh Hoa Nghiêm, Đại Niết Bàn, Kim Quang Minh, Kim Cang Đảnh, và luận Bồ Đề Tâm.
Tông này chủ trương “tâm” và “pháp” không phải là hai cũng không phải là một; ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm; tâm tức là pháp, pháp tức là tâm. Bởi vậy, thật thể và hiện tượng của vạn pháp cũng không rời nhau: chính ở nơi hiện tượng mà thấy được thật thể của vạn pháp. Do chủ trương này mà tông Thiên Thai đã phát huy các giáo nghĩa như “Nhất tâm tam quán”, “Nhất niệm tam thiên” (như đã trình bày ở trước). Cũng do chủ trương ấy mà tuy về phương tiện thiện xảo, tông này tạm thừa nhận có ba cỗ xe (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát), nhưng cứu cánh thì cũng chỉ thu vào cỗ xe duy nhất (tức là Phật thừa) mà thôi. Người tu học vừa phải thông suốt yếu nghĩa của kinh điển (lí giải) và vừa phải dụng công thiền quán (thực hành) để chứng ngộ được thật tướng của vạn pháp.
6. Tông Hoa Nghiêm (hay Hiền Thủ).
Kinh Hoa Nghiêm được xuất hiện từ thế kỉ thứ 2, do công trình của Bồ Tát Long Thọ. Đến thế kỉ thứ 5, đại sư Giác Hiền mang kinh này sang Trung-hoa, dịch và truyền bá. Thế kỉ thứ 7, đại sư Pháp Thuận (hay Đỗ Thuận) đã y cứ trên giáo nghĩa của kinh này mà sáng lập nên tông Hoa Nghiêm. Đến đời tổ thứ ba là đại sư Hiền Thủ (tức Pháp Tạng), tông này trở nên thịnh hành và vang danh rực rỡ khắp nơi, cho nên người ta đã coi ngài là vị sáng tổ đích thực của tông này, và gọi đó là tông Hiền Thủ.
Tông này lập cước trên nền tảng của lí thuyết nhân quả, nhưng là một lí thuyết nhân quả rất đặc biệt, vô cùng thâm diệu; có thể nói, đó là cực điểm của tất cả những lí thuyết nhân quả, được gọi là thuyết “Pháp giới duyên khởi”. Do lí thuyết này mà tông Hoa Nghiêm chủ trương tất cả sự vật trong vũ trụ phải tạo thành một toàn thể nhịp nhàng, tương dung, tương nhiếp trong một thế giới gọi là “sự sự vô ngại pháp giới”, tức là thế giới lí tưởng Nhất-như. Những pháp án nói rằng: “Một là tất cả, tất cả là một”; “Một vật có mặt trong tất cả các vật, tất cả các vật có mặt trong một vật”; “Cái này là cái kia, cái kia là cái này”; “Cái này có trong cái kia, cái kia có trong cái này”; “Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài”; “Quá khứ, hiện tại, vị lai ở trên đầu một sợi tóc” v.v... đều là giáo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm, và cũng là giáo nghĩa của tông này, nhằm giúp cho hành giả quán chiếu, tu tập để đạt được cái thế giới lí tưởng nhất-như ấy.
7. Tông Pháp Tướng (cũng gọi là Duy Thức).
Tư tưởng “Duy Thức” được hệ thống hóa bởi hai vị đại luận sư Vô Trước và Thế Thân (hai anh em ruột, người Ấn-độ) ở thế kỉ thứ 5. Thế kỉ thứ 7, pháp sư Huyền Trang ở Trung-hoa sang Ấn-độ du học, gặp lúc tư tưởng Duy Thức đang cực kì thịnh hành, nên đã chuyên tâm học hỏi và đã sở đắc về pháp môn này. Khi trở về nước, ngài đã tích cực trước tác, phiên dịch và truyền bá Duy Thức Học, và được mọi giới coi là sáng tổ của tông Pháp Tướng ở Trung-hoa.
Tông này chủ trương vạn pháp, bằng cách này hay cách khác, luôn luôn liên hệ với thức và chỉ hiện hữu trong thức. Cho nên, học thuyết của tông này – Duy Thức Học, đã chú trọng đặc biệt về vấn đề “nhận thức”. Nó chuyên khảo sát mọi hiện tượng (pháp) bằng tướng trạng và hoạt dụng (tướng) của chúng, để từ đó thấy được thể tính chân thật của chúng. Tông này đặt căn bản trên các kinh luận như: Hoa Nghiêm, Giải Thâm Mật, A Tì Đạt Ma, Lăng Già, Du Già Sư Địa Luận (của Di Lặc và Vô Trước), Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận (của Di Lặc và Vô Trước), Nhiếp Đại Thừa Luận (của Vô Trước), Thập Địa Kinh Luận (của Thế Thân), Duy Thức Nhị Thập Tụng (của Thế Thân), Duy Thức Tam Thập Tụng (của Thế Thân), Bát Thức Qui Củ Tụng (của Huyền Trang) v.v...
8. Tông Chân Ngôn (hay Mật tông).
Đầu thế kỉ thứ 8, hai đại sư Ấn-độ là Thiện Vô Úy và Kim Cương Trí, trước sau đã đem các kinh điển Mật giáo sang truyền bá và lập nên tông Chân Ngôn tại Trung-hoa; nhưng phải đợi đến giữa thế kỉ ấy với vị đệ tử xuất sắc của ngài Kim Cương Trí là đại sư Bất Không (người Ấn), thì tông này mới thực sự được phát huy rực rỡ. Hai bộ kinh căn bản và quan trọng nhất của tông này là Đại Nhật và Kim Cương Đảnh.
Yếu chỉ của tông Chân Ngôn là chuyên hành trì bí mật về cả ba nghiệp thân, khẩu và ý. Hành trì bí mật về thân là dùng ấn quyết; về khẩu là đọc tụng thần chú (chân ngôn); và về ý là quán tưởng một đối tượng; cả ba hành động ấy phải đồng thời tương ứng nhau. Khi sự hành trì đi đến chỗ nhất tâm thì hành giả thâm nhập được Phật trí, đắc đạo ngay trong giờ phút hiện tại.
9. Tông Tịnh Độ (hay Liên tông).
Vào thế kỉ thứ 3, đại sư Khương Tăng Khải (người Ấn) sang Trung-hoa, dịch và truyền bá kinh Vô Lượng Thọ; thế kỉ thứ 5, đại sư Cưu Ma La Thập sang Trung-hoa và dịch kinh A Di Đà; tiếp đó, đại sư Cương Lương Da Xá lại sang và dịch kinh Quán Vô Lượng Thọ; đó là ba bộ kinh khởi đầu và làm nền tảng cho việc hình thành tông Tịnh Độ. Pháp môn “tu tịnh độ” đã được người Trung-hoa biết đến từ thế kỉ thứ 3, nhưng thực ra, mãi đến thế kỉ thứ 7, do công trình truyền bá sâu rộng của đại sư Huệ Viễn, tông này mới được hưng thịnh và thực sự trở thành một tông phái; do đó, ngài đã được coi là vị tổ sáng lập.
Tông Tịnh Độ chủ trương tu tập thiện nghiệp, chuyên tâm trì niệm danh hiệu và quán tưởng hình tướng đức Phật A Di Đà thì sau khi mệnh chung sẽ được vãng sinh về thế giới Cực-lạc, một thế giới hoàn toàn trong sạch, an vui, do Phật A Di Đà làm giáo chủ, khác hẳn với thế giới Ta-bà đầy dơ bẩn và khổ đau này.
10. Tông Thiền (hay Tâm tông).
Mục đích của Thiền tông là “kiến tánh thành Phật”. Để tiến tới mục đích đó, người tu thiền phải bắt đầu bằng cuộc sống “có chánh niệm” và tiếp tục bằng con đường thực nghiệm tâm linh (chứ không phải dùng trí năng để nghiên cứu, phân tích, lí luận) để chứng ngộ chân lí. Đường lối ấy được tóm tắt trong câu nói của tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Truyền thừa không hệ thuộc vào giáo điển, không căn cứ vào văn tự, đi thẳng vào lòng người, thấy được thể tính liền thành Phật.” (Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.)
Tổ Bồ Đề Đạt Ma là người Ấn-độ, sang Trung-hoa đầu thế kỉ thứ 6, và được coi là vị tổ đầu tiên của Thiền tông Trung-hoa. Đến đầu thế kỉ thứ 8 thì Thiền tông chia làm hai nhánh: nhánh phương Bắc (do tổ Thần Tú) và nhánh phương Nam (do tổ Huệ Năng). Nhánh Bắc không bao lâu thì mai một, riêng nhánh Nam thì ngày càng hưng thịnh, và đã sản sinh ra 5 thiền phái nổi tiếng: Lâm Tế (do tổ Hy Vận), Qui Ngưỡng (do tổ Qui Sơn), Tào Động (do tổ Dược Sơn), Vân Môn (do tổ Vân Môn), và Pháp Nhãn (do tổ Huyền Diệu).
Mặc dù kinh Lăng Già (được đại sư Đức Hiền, người Ấn, dịch ra Hán văn vào thế kỉ thứ 5) được xem là kinh căn bản, nhưng Thiền tông còn kết hợp tư tưởng của nhiều kinh điển khác như Viên Giác, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Bát Nhã v.v...
Tất cả mười tông phái Phật giáo ở trên, sau khi được thành lập ở Trung-hoa, đều được truyền bá sang Triều-tiên và Nhật-bản, và đều từng được hưng thịnh một thời. Ngày nay, ở Trung-hoa (lục địa cũng như Đài-loan), các tông phái hầu như không còn mang sắc thái đặc thù nào nữa, mà chỉ còn là một nền Phật giáo tổng hợp của các tông phái đại thừa, trong đó, Thiền và Tịnh-độ được in rõ nét hơn. Ở Nhật-bản và Đại-hàn, ba tông Thiền, Luật và Tịnh-độ vẫn còn đang thịnh hành và giữ được bản sắc riêng.
Trường hợp Việt-nam thì khác hẳn. Suốt 2000 năm lịch sử Phật giáo ở Việt-nam, có thể nói, đó chỉ là lịch sử của Thiền tông. Không kể hai thế kỉ đầu Tây lịch (thời kì Phật giáo du nhập trực tiếp từ Ấn-độ), từ thế kỉ thứ 3, Việt-nam đã được truyền bá thiền học, do tổ sư Khương Tăng Hội (người Việt gốc Khương-cư). Chính ngài là sáng tổ của thiền học Việt-nam, và sau đó được tiếp nối bởi các thiền sư Đạt Ma Đề Bà (từ Ấn-độ sang) và Huệ Thắng (người Việt, đệ tử của Đạt Ma Đề Bà) ở thế kỉ thứ 5, thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi (người Ấn, sang Trung-hoa rồi Việt-nam) ở thế kỉ thứ 6, thiền sư Vô Ngôn Thông (từ Trung-hoa sang) ở thế kỉ thứ 9 v.v... Nhưng, nói thế không có nghĩa là Phật giáo Việt-nam chỉ hoàn toàn thuần túy có tư tưởng thiền học, mà sự thực, trên phương diện hành trì tu tập, nó thu nhiếp cả các phương pháp của Tịnh Độ, Luật và Mật tông, và trên phương diện phát huy trí tuệ, nó cũng thống hợp cả những yếu nghĩa của các tông Duy Thức, Thiên Thai, Hoa Nghiêm v.v...

MƯỜI TRÍ LỰC (thập trí lực)
Mười trí lực cũng gọi là mười thần lực (thập thần lực) hay mười lực (thập lực), là 10 sức trí tuệ mà chỉ đức Phật mới có đầy đủ. Đức Phật đã chứng đắc cái trí thật tướng, thấy rõ, thấu suốt tất cả, không có cái gì có thể hủy hoại được trí đó, không ai có thể hơn được trí đó. Mười trí lực đó gồm có:
1. Sức trí tuệ biết rõ điều đúng đạo lí hay không đúng đạo lí: Đức phật quán sát sâu xa, thấy rõ một cách chân thật tất cả nhân duyên quả báo, như tạo nghiệp lành thì biết chắc chắn sẽ hưởng được quả báo an vui, gọi là “biết điều đúng đạo lí”; nếu tạo nghiệp xấu mà được hưởng quả báo an vui là không đúng đạo lí, gọi là “biết điều không đúng đạo lí”. Tất cả những sự việc như vậy, đức phật đều biết hết.
2. Sức trí tuệ biết rõ nghiệp báo suốt ba đời: Đức Phật biết rõ nơi sinh cùng nghiệp duyên quả báo của tất cả chúng sinh trải suốt ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
3. Sức trí tuệ biết rõ tiến trình giải thoát bằng thiền định: Đức Phật biết rõ một cách xác thật từng nấc tu tập thiền định của chúng sinh, cạn sâu thứ lớp như thế nào.
4. Sức trí tuệ biết rõ các căn tánh cao thấp: Đức Phật biết rõ một cách xác thật căn tánh của các đệ tử và khắp chúng sinh là hơn kém, cao thấp, quả vị chứng được là lớn hay nhỏ.
5. Sức trí tuệ biết rõ mọi hiểu biết: Đối với mọi sự hiểu biết, ưa thích lành dữ khác nhau của chúng sinh, đức Phật biết rõ tất cả.
6. Sức trí tuệ biết rõ mọi lãnh vực: Đức Phật biết rõ một cách xác thật mọi lãnh vực khác nhau ở thế gian.
7. Sức trí tuệ biết rõ mọi đường đi chỗ đến: Đức phật biết rõ một cách xác thật những phần hành hữu lậu của sáu đường đến đâu, và những phần hành vô lậu của niết bàn đến đâu.
8. Sức trí tuệ biết rõ không bị chướng ngại như thiên nhãn: Đức phật dùng thiên nhãn biết rõ một cách xác thật lúc sinh lúc tử của chúng sinh, cũng như những cảnh giới lành dữ mà chúng sinh sẽ sinh đến đó, cho đến các nghiệp duyên lành dữ của những chúng sinh xấu, đẹp, nghèo, giàu v.v...
9. Sức trí tuệ biết rõ các kiếp trước xa xôi: Đức phật biết rõ một cách xác thật mọi sự việc trong đời quá khứ, không những một đời mà đến trăm ngàn vạn đời, không những một kiếp mà đến trăm ngàn vạn kiếp, chúng sinh chết ở cõi này rồi sinh ở cõi khác, chết ở cõi khác rồi sinh ở cõi này, nào là tên họ, ăn uống, khổ vui, mạng sống dài ngắn v.v...
10. Sức trí tuệ biết rõ tất cả các tập khí đều đã dứt tuyệt: Đức phật biết rõ một cách xác thật tất cả các loại tập khí đều đã vĩnh viễn dứt tuyệt, không bao giờ còn sinh khởi nữa.

MƯỜI TRỤ (thập trụ)
Thể nhập lí bát nhã gọi là “trụ”. Mười-trụ là cấp thứ nhì (sau cấp Mười-tín – xem ở trên) trong 7 cấp (gồm 52 giai vị) trên tiến trình tu tập đạo Bồ-tát. Ở cấp Mười-tín, hành giả đã củng cố được lòng tin vững chắc, thâm sâu đối với chánh pháp, đối với con đường làm Phật; dù là tà giáo ngoại đạo cũng không lay chuyển được, dù là ma chướng cũng không quyến rủ theo ma đạo được, cho nên gọi là “trụ”. Cấp này gồm có 10 trụ vị như sau:
1. Trụ vị Phát-tâm: Hành giả dùng các phương tiện chân thật để phát khởi mười lòng tin (thập tín), tín phụng Tam Bảo, không khởi tà kiến, không gây trọng tội, tu tập tất cả pháp môn, học rộng, trí tuệ cao, ngộ nhập cảnh giới chân không, trụ ở tánh không.
2. Trụ vị Trì-địa (hay Trị-địa): Hành giả đã trụ nơi tánh không cho nên tâm thường sáng tỏ, trong sạch, trong như ngọc lưu li hiện ra chất vàng ròng; được như vậy là vì lúc hành giả mới phát tâm thì tâm ấy đã là vi diệu, rồi dùng cái tâm vi diệu ấy mà trải làm nền tảng vững bền như đất.
3. Trụ vị Tu-hành: Trí tuệ từ hai địa vị trước đã sáng tỏ, cho nên hành giả du hành trong mười phương mà không hề gặp trở ngại.
4. Trụ vị Sinh-quí: Thọ một phần khí lực của Phật, thông tỏ sâu xa, được nhập vào dòng giống Như Lai.
5. Trụ vị Phương-tiện cụ-túc: Tu tập vô lượng căn lành, tự lợi lợi tha, phương tiện đầy đủ, tướng mạo không chỗ nào khiếm khuyết.
6. Trụ vị Chánh-tâm: Không những tướng mạo, mà tâm cũng đồng với Phật.
7. Trụ vị Bất-thối: Đã thể nhập vào cảnh giới chân không vô sinh, thân tâm hòa hợp, ngày càng thăng tiến đến quả Phật, không còn thối lui.
8. Trụ vị Đồng-chân: Từ khi phát tâm, thỉ chung không trở ngược, không thối lui, không khởi niệm tà ma phá hoại tâm bồ đề, cho đến bây giờ thì cả mười thân tướng thiêng liêng của Phật (bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, trụ trì thân, tướng hảo trang nghiêm thân, thế lực thân, như ý thân, phúc đức thân, trí thân, pháp thân) đồng thời đầy đủ.
9. Trụ vị Pháp-vương-tử: Hành giả trở thành đứa con tinh thần của bậc Pháp Vương, thừa tiếp công việc (Phật sự) của bậc Pháp Vương. Từ trụ vị thứ nhất là Phát-tâm đến trụ vị thứ tư là Sinh-quí, được gọi là “nhập thánh thai”; từ trụ vị thứ năm là Phương-tiện cụ-túc đến trụ vị thứ tám là Đồng-chân, được gọi là “nuôi lớn thánh thai”; đến trụ vị Pháp-vương-tử này thì hình tướng đầy đủ, được gọi là “xuất thai”.
10. Trụ vị Quán-đảnh: Bồ-tát đã là con của bậc Pháp Vương, kham nổi Phật sự, cho nên được Phật rưới nước trí tuệ lên đầu, như vị hoàng tử dòng Sát-đế-lị, lúc lên ngôi chịu lễ quán đỉnh do một đạo sĩ Bà-la-môn chủ trì.

MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ LỚN CỦA PHẬT (thập đại đệ tử)  
Trong suốt cuộc đời hành đạo, đức Phật đã hóa độ cho hàng trăm vạn đệ tử, xuất gia cũng như tại gia, gồm đủ mọi thành phần và tầng lớp xã hội. Trong số này, hạng xuất sắc, ưu tú, chứng được thánh quả cũng đã có đến hàng vạn, nhưng đặc biệt nhất, có mười vị đã từng được các kinh điển tiểu cũng như đại thừa đều xưng tụng là mười vị đệ tử đứng đầu của Phật. Sở dĩ các ngài được gọi là “đứng đầu” (đại) vì ai trong số đó cũng có một sở trường riêng, một đạo hạnh riêng, mà cái sở trường, cái đạo hạnh ấy đều ở mức cao tột, trội hơn tất cả mọi người khác trong giáo đoàn. Mười vị tôn giả ấy được các kinh điển liệt kê có chỗ khác nhau, nhưng danh sách sau đây là phổ thông hơn hết:
1. Tôn giả Xá Lợi Phất, đứng đầu thánh chúng về trí tuệ (trí tuệ đệ nhất). Ngài là người nước Ma-kiệt-đà, con của một gia đình Bà-la-môn giàu có, tiếng tăm. Lớn lên, ngài cùng với người bạn thân là Mục Kiền Liên theo tu học với đạo sĩ San Xà Da, rất nổi tiếng ở thành Vương-xá (kinh đô của vương quốc Ma-kiệt-đà). Vốn thông minh tài trí hơn người, chẳng bao lâu hai người đã đạt được trình độ tương đương với thầy; tuy vậy, hai người vẫn không bằng lòng với sở đắc của mình, cho nên đã giao hẹn cùng nhau rằng, hễ ai chứng đạt được đạo lớn trước thì phải chỉ bảo ngay cho người kia; hoặc giả, ai tìm được minh sư trước thì phải dìu dắt người kia. Vào năm thứ hai sau ngày thành Đạo, đức Phật dẫn giáo đoàn đến hành hóa tại địa phương kinh thành Vương-xá.  Tại đây, được sự hướng dẫn của đại đức A Xã Bà Thệ (một trong 5 vị đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật), Xá Lợi Phất cùng Mục Kiền Liên đã xin xuất gia làm đệ tử Phật, và chẳng bao lâu hai vị đã trở thành những bậc thượng thủ của giáo đoàn. Chính tôn giả Xá Lợi Phất là người đã được Phật ủy thác trông coi công trình xây cất tu viện Kì-viên ở thủ đô Xá-vệ của vương quốc Kiều-tát-la. Lúc đó, bước chân hoằng hóa của Phật chưa đặt đến nơi này, nhưng nhờ vào trí tuệ siêu việt và biện tài vô ngại của mình mà tôn giả đã thu phục biết bao nhiêu vị đạo sĩ ngoại đạo lỗi lạc, đem họ về với Tam Bảo, trước khi Phật và giáo đoàn đến đây mở đạo tràng tại tu viện Kì-viên. Tôn giả viên tịch trước Phật ba tháng.
2. Tôn giả Mục Kiền Liên, đứng đầu thánh chúng về thần thông (thần thông đệ nhất). Ngài cũng là con của một gia đình Bà-la-môn, trong ngôi làng sát cạnh làng của tôn giả Xá Lợi Phất. Ngài và Xá Lợi Phất, như trên đã nói, là hai người bạn chí thân, cùng thông minh tài trí, lớn lên cùng học một thầy, rồi cùng theo Phật xuất gia một lần. Ngoài sở trường về thần thông, ngài còn nổi tiếng là bậc chí hiếu, vì đã cứu được Mẹ ngài thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỉ. Công tác hoằng hóa đặc sắc của tôn giả là việc hóa độ cho thiếu phụ Liên Hoa Sắc, từ một nàng kĩ nữ lừng danh trở thành một vị tì kheo ni gương mẫu, chứng quả A-la-hán và có thần thông số một trong hàng ni chúng. Cuối đời, tôn giả đã bị ngoại đạo hành hung đến tử thương; việc xảy ra khoảng vài tháng trước khi tôn giả Xá Lợi Phất viên tịch.
3. Tôn giả Đại Ca Diếp, đứng đầu thánh chúng về tu khổ hạnh (đầu đà đệ nhất). Ngài xuất thân từ giai cấp Bà-la-môn, là người con độc nhất trong một gia đình cự phú ở ngoại ô kinh thành Vương-xá của vương quốc Ma-kiệt-đà. –Tương truyền rằng, tài sản của gia đình này còn nhiều hơn cả tài sản của quốc vương đương thời là Tần-Bà-Sa-La.– Ngài được sinh ra dưới gốc cây, và có gần đủ 32 tướng tốt của đức Phật. Đến tuổi trưởng thành, ngài vâng lệnh song thân lập gia đình, nhưng cả hai vợ chồng đều cùng có ý nguyện xuất gia tìm thầy học đạo, nên trong suốt 12 năm sống bên nhau, hai người vẫn quyết giữ phạm hạnh, dứt tuyệt ái ân. Sau 12 năm, lúc đó song thân đều đã qua đời, ngài mới được dịp thực hiện ý nguyện, bèn rời nhà ra đi, ước hẹn với vợ rằng, khi nào tìm được minh sư thì sẽ trở về dẫn bà cùng đi tu. Tương truyền, ngày ngài rời nhà ra đi tìm thầy học đạo cũng chính là ngày đức Thế Tôn thành đạo. Vậy mà ngài đã phải đi chu du khắp nơi, mãi đến khi tu viện Trúc-lâm (ở ngoại ô kinh thành Vương-xá) xây cất xong (năm thứ hai sau ngày Phật thành đạo), Phật và giáo đoàn dời về hành đạo tại đó, ngài mới có duyên được gặp Phật và xuất gia theo Phật tu học. Rồi năm năm sau nữa, khi chúng Tì kheo ni đã được Phật cho phép thành lập, ngài mới độ được cho vợ cùng xuất gia theo Phật. Trước khi xuất gia, ngài thừa kế một gia sản giàu sang địch quốc là thế, vậy mà sau khi xuất gia, ngài lại chỉ chuyên tu hạnh đầu đà (khổ hạnh). Ngài sống khắc khổ đến nỗi đức Phật cũng phải ái ngại, nhất là khi tuổi đã về già, sức khỏe đã mòn mỏi. Cho nên đã có vài lần Phật phải khuyên bảo, nhưng ngài vẫn cương quyết giữ chí nguyện. Ngài đã được đức Thế Tôn truyền cho tâm pháp, và sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, ngài đã kế thừa sự nghiệp, gánh vác trọng trách lãnh đạo giáo đoàn. Với sự hộ pháp của vua A Xà Thế (nối ngôi vua cha là Tần Bà Sa La), ngài đã đích thân tổ chức và chủ trì cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên tại ngoại ô thành Vương-xá, ba tháng sau ngày Phật nhập niết bàn. Ngài thọ trên một trăm tuổi. Trước khi viên tịch, ngài đã truyền tâm pháp cùng trọng trách lãnh đạo giáo hội lại cho tôn giả A Nan.
4. Tôn giả Tu Bồ Đề, đứng đầu thánh chúng về thông suốt tính không của thực tại vạn hữu (giải không đệ nhất). Ngài quê ở thành Vương-xá, trong một gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương, nghiệp chủ; vốn là cháu gọi trưởng giả Cấp Cô Độc (cư trú tại kinh thành Xá-vệ của vương quốc Kiều-tát-la, đã từng xây tu viện Kì-viên để cúng dường Phật và giáo đoàn dùng làm cơ
sở tu học và hành đạo đầu tiên ở vương quốc này) bằng bác ruột. Trong hàng thánh chúng, chỉ có tôn giả là có nhận thức sâu sắc về tính KHÔNG của vạn pháp, vì ngài đã hoàn toàn thấu triệt về đạo lí Không cũng như đã chứng nghiệm được tuệ giác Không. Để chứng minh cho điều đó, đức Phật đã từng bảo tôn giả thay Ngài giảng thuyết về tính Không để cho đại chúng được bổ túc thêm kiến thức. Không có tài liệu nào ghi nhận về thời khắc viên tịch của tôn giả.
5. Tôn giả Ca Chiên Diên, đứng đầu thánh chúng về tài hùng biện (nghị luận đệ nhất). Ngài xuất thân ở giai cấp Bà-la-môn, trong một gia đình hào phú, danh giá bậc nhất tại vương quốc A-bàn-đề (miền Nam Ấn-độ). Từ nhỏ, ngài đã được song thân cho về ở với đạo sĩ A Tư Đà, cậu ruột của ngài, để tu học. A Từ Đà là một vị đạo sĩ Bà-la-môn đắc đạo, tiếng tăm lừng lẫy khắp xứ Ấn-độ từ trước khi Phật xuất thế. Thấy cháu mình bẩm tính cực kì thông minh, đức hạnh, lại có chí lớn, ông rất cưng quí, và đã đem hết gia sản tinh thần của mình truyền cho. Bởi vậy, vừa trưởng thành là ngài đã trở thành một đạo sĩ Bà-la-môn xuất chúng. A Tư Đà, dù vốn là một đạo sĩ Bà-la-môn lỗi lạc, vẫn thấy rõ vị thái tử Tất Đạt Đa mới ra đời tại kinh thành Ca-tì-la-vệ (vương quốc Thích-ca) kia mới chính là bậc đại giác ở thế gian. Vì biết rõ mình đã quá già, không thể sống cho đến ngày thái tử thành đạo, nên ông đã dẫn cháu sang vương quốc Ca-thị, đến vùng phụ cận vườn Nai (Lộc-uyển) gần kinh thành Ba-la-nại, và cư trú tại đây. Từ đó, hằng ngày ông đều dặn dò Ca Chiên Diên, “khi nào bậc đại giác thành đạo, Người sẽ hóa độ tại khu vực này, lúc đó cháu phải xin theo Người tu học.” Đạo sĩ đã từ trần trước khi Phật thành đạo, và Ca Chiên Diên đã nhớ lời cậu dạy, khi Phật đến hóa độ ở vùng này, liền xin xuất gia theo Phật tu học. Vốn thông minh bác học, chẳng bao lâu ngài chứng quả A-la-hán, và trở thành một vị đệ tử thượng thủ của đức Phật. Ngài nổi danh là nhà hùng biện đại tài, và chính nhờ tài hùng biện này, ngài đã thuyết phục, dìu dắt không biết bao nhiêu ngoại đạo trở về nương tựa ngôi Tam Bảo. Không ai biết được ngài viên tịch vào lúc nào.
6. Tôn giả Phú Lâu Na, đứng đầu thánh chúng về giảng pháp (thuyết pháp đệ nhất). Ngài sinh trong một gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương, nghiệp chủ ở vương quốc Kiều-tát-la. Tôn giả được nổi tiếng nhân lần đi bố giáo ở tiểu quốc Du-na, một xứ biên địa mà ai nghe cũng sợ sệt, vì đó là một nơi không có văn hóa, dân chúng man rợ, bạo ác. Vậy mà tôn giả đã tự nguyện đến đó giáo hóa, và đã thành công rực rỡ, lập được đạo tràng, dạy dỗ cho dân chúng sống có văn hóa, tính tình thuần thiện, thờ phụng Tam Bảo. Không biết tôn giả viên tịch vào lúc nào, chỉ biết rằng, sau khi Phật nhập diệt, tôn giả vẫn còn tiếp tục sứ mệnh độ sinh.
7. Tôn giả A Na Luật (hay A Nậu Lâu Đà), đứng đầu thánh chúng về mắt thấy vô ngại (thiên nhãn đệ nhất). Ngài là con trai thứ của thân vương Cam Lộ Phạn ở kinh thành Ca-tì-la-vệ (vương quốc Thích-ca), gọi quốc vương Tịnh Phạn bằng bác ruột. Như vậy, đức Phật với ngài là anh em chú bác ruột. Anh ruột ngài là đại tướng Ma Ha Nam, người đã được đức Phật và hội đồng hoàng tộc tín nhiệm cung cử lên nối ngôi sau khi vua Tịnh Phạn thăng hà (vì lúc này thái tử Nan Đà cũng như hoàng tôn La Hầu La đều đã xuất gia theo Phật). Năm thứ ba sau ngày thành đạo, đức Thế Tôn đã từ tu viện Trúc-lâm (ở thành Vương-xá) trở về cố hương là thành Ca-tì-la-vệ để thăm phụ hoàng cùng hoàng tộc. Khi Phật rời Ca-tì-la-vệ để đi địa phương khác giáo hóa thì có bảy vị vương tử con của các thân vương thuộc dòng họ Thích-Ca (như Bạch Phạn, Cam Lộ Phạn, Hộc Phạn – đều là em ruột của vua Tịnh Phạn) đã xin theo Phật xuất gia, trong đó có vương tử A Na Luật. Ngài tu học rất tinh tấn, nhưng cứ mắc phải một lỗi nhỏ, là thường ngủ gục trong khi nghe Phật giảng pháp! Dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng vẫn không bỏ tật ấy được; đến nỗi ngài đã bị Phật quở trách đôi ba phen. Cuối cùng, chẳng có cách nào hơn, ngài phải lập nguyện “không ngủ”. Ngài đã ngồi suốt ngày suốt đêm, hai mắt mở thao láo nhìn vào quãng không, không chớp mắt. Cứ thế, ngày này qua ngày khác, ngài cố gắng ngồi chịu đựng, cho đến một hôm thì cặp mắt sưng vù. Phật rất lo ngại, lại phải khuyên dỗ, nhưng ngài cứ nhất mực giữ vững chí nguyện; kết quả đưa đến là cặp mắt mù luôn! Phật thương xót lắm, cứ ở một bên để săn sóc cho ngài.  Phật vừa săn sóc, vừa dạy ngài phương pháp tu định để cho mắt “sáng” ra. Ngài triệt để tu tập theo phương pháp Phật dạy, và chẳng bao lâu sau đó, ngài chứng thiên nhãn thông, thấy suốt trong ngoài, khắp cùng ba cõi, không ai sánh bằng, cho nên được đại chúng xưng tán là bậc thiên nhãn số một, trở thành một trong những vị đệ tử lớn của Phật. Trong giờ phút Phật nhập niết bàn tại rừng Câu-thi-na, ngài vẫn kề cận bên Phật, nhưng về sau thì không ai thấy vết tích gì do ngài để lại.
8. Tôn giả Ưu Ba Li, đứng đầu thánh chúng về tinh tường và nghiêm trì giới luật (trì giới đệ nhất). Ngài quê ở thành Ca-tì-la-vệ, xuất thân từ giai cấp nô lệ, làm nghề thợ cạo, có hiếu với mẹ vô cùng. Dù ở giai cấp nô lệ, bị cấm học hành, nhưng hai mẹ con đều có tâm trí linh mẫn, thông minh khác thường, riêng ngài thì tính tình cẩn trọng, nghề nghiệp khéo léo, vì vậy mà ngài đã được tuyển vào hoàng cung để chuyên trách việc cắt tóc và hầu hạ các vị vương tử. Khi đức Phật về hoàng cung lần đầu tiên (năm thứ ba sau ngày thành đạo) để thăm phụ hoàng và hoàng tộc, bảy vị vương tử dòng Thích-ca đã xin theo Phật xuất gia tu hành, ngài cũng xin được theo các vị vương tử xuất gia, và đã được Phật thu nhận. Đó là người ở giai cấp nô lệ đầu tiên được gia nhập giáo đoàn của Phật, – và cũng là người nô lệ đầu tiên được tham dự vào sinh hoạt tôn giáo trong lịch sử văn minh Ấn-độ.  Do tính tình vốn vô cùng cẩn trọng, ngài đã hành trì giới luật thật nghiêm túc, trở thành vị tì kheo mẫu mực nhất tăng đoàn về phương diện giới luật. Trong đại hội kết tập kinh điển lần đầu tiên ở ngoại ô thành Vương-xá do tôn giả Đại Ca Diếp chủ trì, ngài đã được đại chúng cung cử đọc tụng các giới luật đức Phật đã chế, làm thành bộ Bát Thập Tụng Luật, là bộ luật căn bản đầu tiên của Phật giáo. Khác với Phật giáo Bắc truyền, Phật giáo Nam truyền cho rằng, vị sơ tổ kế thừa đức Phật lãnh đạo giáo đoàn là tôn giả Ưu Ba Li chứ không phải là tôn giả Đại Ca Diếp.
9. Tôn giả A Nan (hay A Nan Đà), đứng đầu thánh chúng về nghe nhiều nhớ kĩ (đa văn đệ nhất). Ngài là em ruột của đại đức Đề Bà Đạt Đa (con của thân vương Bạch Phạn), và là em chú bác ruột của đức Phật. (Các vị vương tử anh em chú bác ruột trong dòng họ Thích-ca còn được biết tên cho đến ngày nay, theo thứ tự trên dưới, gồm có: Tất Đạt Đa, Nan Đà – con quốc vương Tịnh Phạn; Đề-Bà Đạt Đa, A Nan Đà – con thân vương Bạch Phạn; Ma Ha Nam, A Na Luật – con thân vương Cam Lộ Phạn; Bạt Đề, Bà Sa, Kiếp Tân Na – con thân vương Hộc Phạn; và Nan-Đề – con của (?). Trừ Ma Ha Nam ở lại nối ngôi vua Tịnh Phạn, tất cả các vị khác đều xuất gia tu hành; thái tử Tất Đạt Đa, trước khi xuất gia tìm đạo và thành Phật thì đã lập gia đình và có con là vương tôn La Hầu La; khi đức Phật trở về cố hương Ca-tì-la-vệ thăm hoàng gia lần đầu thì thái tử Nan Đà theo Phật xuất gia trước nhất, kế tiếp là vương tôn La Hầu La, đến khi Phật rời Ca-tì-la-vệ để đi giáo hóa phương khác thì bảy vị vương tử còn lại cùng rủ nhau theo đến chỗ Phật xin xuất gia.) Theo truyền thuyết từ trước đến nay thì tôn giả A Nan đã được sinh ra đúng vào ngày đức Phật thành đạo. Nhưng thiết nghĩ, điều này không hợp lí lắm, vì ngài theo Phật xuất gia vào năm thứ ba sau ngày Phật thành đạo, nếu ngài sinh vào ngày Phật thành đạo thì lúc xuất gia ngài mới có 3 tuổi! Không thể chấp nhận được. Năm đó vương tôn La Hầu La được 10 tuổi. Dù tôn giả La Hầu La xuất gia trước, nhưng cũng chỉ trước vài ba tháng thôi. Ngài xuất gia cùng năm với La Hầu La, nếu ngài không lớn hơn thì cũng phải bằng tuổi với La Hầu La, nghĩa là ngài phải ra đời trước ngày Phật thành đạo. Theo Đường Xưa Mây Trắng của thiền sư Nhất Hạnh thì khi đi xuất gia, ngài vừa 18 tuổi – lớn hơn vương tôn La Hầu La 8 tuổi, nhưng nhỏ tuổi nhất trong số bảy vị vương tử cùng đi xuất gia một lần. Bởi vậy, khi xuất gia ngài đã không được thọ giới tì kheo ngay, mà phải chờ đến hai năm sau, khi tròn đủ 20 tuổi. Trong tăng đoàn, ngài là người đẹp trai và thông minh nhất, học một biết mười, nghe đâu nhớ đó, lại nhớ lâu, nhớ kĩ. Năm Phật được 55 tuổi đời thì ngài được đại chúng đề cử làm thị giả thường xuyên cho Phật. Phật đi đâu, nói pháp gì, ngài đều có mặt, bởi vậy, ngài cũng là người đã “nghe được nhiều nhất” trong tăng đoàn. Với nhiệm vụ thị giả, ngài đã hầu hạ, săn sóc đức Thế Tôn tận tâm tận lực, từ việc lớn đến việc nhỏ đều chu toàn trọn vẹn, không sơ suất, không lỗi lầm. Đối với mọi người thì ngài hết sức khiêm cung, lịch sự, hòa nhã, thân ái; cho nên, trong thì đức Thế Tôn không có điều gì phải quở trách ngài, và ngoài thì đại chúng cũng không có gì phải phiền hà ngài. Điều làm cho mọi người (từ thời đại ngài cho đến ngày hôm nay) yêu mến và nhớ ngài nhất là lần ngài bị nữ nạn “Ma Đăng Già”. Ni chúng tôn thờ ngài như vị cao tổ, vì nhờ ngài mà đức Thế Tôn đã cho phép thành lập giáo hội tì kheo ni. Tuy thông minh, đức độ và tận tụy như vậy, nhưng ngài lại là người chứng ngộ chậm nhất trong tăng đoàn! Một vị có căn tính tối tăm nhất tăng đoàn như đại đức Chu Lị Bàn Đà Già, học một câu kệ ba tháng không thuộc, mà vẫn chứng quả A-la-hán trước ngài. Còn ngài thì mãi đến ba tháng sau ngày Phật nhập diệt, ngay buổi tối trước ngày khai mạc đại hội kết tập kinh điển lần đầu, do sự “đánh thức” của tôn giả Đại Ca Diếp, ngài mới chứng thánh quả A-la-hán!  Với sự kiện này, ngài đã được chấp thuận cho tham dự đại hội vào ngày hôm sau, và được toàn thể thánh chúng cung thỉnh lên pháp tòa đọc tụng lại toàn bộ những lời dạy của đức Phật trong suốt 45 năm qua, làm thành tạng Kinh trong ba tạng kinh điển của Phật giáo. Khi tuổi thọ xấp xỉ 80, ngài được tôn giả Đại Ca Diếp (trên 100 tuổi) truyền tâm pháp và ủy thác trọng trách lãnh đạo giáo hội; và đến năm 120 tuổi thì ngài truyền tâm pháp và giao phó trách nhiệm lãnh đạo giáo hội cho đệ tử là tôn giả Thương Na Hòa Tu, rồi nhập niết bàn.
10. Tôn giả La Hầu La, đứng đầu thánh chúng về oai nghi tế hạnh (mật hạnh đệ nhất). Ngài là con của thái tử Tất Đạt Đa và công chúa Da Du Đà La, tức là cháu nội của vua Tịnh Phạn. Vì thái tử Tất Đạt Đa đã đi tu, và sau đó, người em cùng cha khác mẹ của thái tử Tất Đạt Đa là thái tử Nan Đà cũng đi tu, cho nên người thừa kế của vua Tịnh Phạn nhất định phải là ngài; nhưng rồi ngài cũng đi tu nốt, bởi thế, sau khi vua Tịnh Phạn thăng hà, Phật và hội đồng hoàng tộc mới phải cung cử đại tướng Ma Ha Nam (anh ruột tôn giả A Na Luật) lên nối ngôi. Ngài theo Phật xuất gia lúc 10 tuổi, thờ tôn giả Xá Lợi Phất làm thầy y chỉ, và trở thành vị sa di đầu tiên của tăng đoàn. Suốt tuổi ấu thơ sống trong vương cung, ngài đã từng được mẹ và ông nội thương yêu cùng cực; lúc sống ở tăng đoàn, tuy là thân phận sa di, nhưng phần vì vẫn còn là một chú bé, phần vì là con của Phật nên ai cũng cưng; những yếu tố đó đã giúp cho cái tập khí “vương giả” cứ sống ngấm ngầm mãi trong tâm hồn trẻ thơ, đã khiến cho sự tu tập của chú sa di La Hầu La không được nghiêm túc, hay lấy sự đùa nghịch phá phách người lớn làm trò vui. Bởi vậy, đích thân đức Thế Tôn phải bao lần dạy dỗ nghiêm khắc, rồi dần dần, càng trưởng thành ngài càng nhận ra được lẽ thật, quyết tâm sửa đổi những lỗi lầm của tuổi trẻ. Mặt khác, vị y chỉ sư của ngài là tôn giả Xá Lợi Phất cũng chăm nom tận tình, đi giáo hóa ở đâu cũng dẫn ngài theo, ở đâu cũng cho ngài ở cùng, cho nên ngài đã được thấm nhuần trí tuệ cũng như đức độ nhẫn nhục, khiêm cung của thầy; ngài quyết tâm tu tập tinh tấn, nghiêm trì giới luật, chỉnh đốn oai nghi, suốt ngày im lặng, giảm thiểu tiếp xúc, không nói chuyện vô ích với bất cứ ai... Sau một thời gian chuyên tu “mật hạnh” như thế, một hôm, nhân một lời dạy đơn giản của Phật: “La Hầu La! Thầy hãy quán chiếu để thấy rõ sắc là vô thường; thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô thường; thân thể và tâm ý của mọi người đều là vô thường; đến cả vạn sự vạn vật đầy dẫy trong thế gian kia, tất cả cũng đều là vô thường. Đã thấy rõ lẽ vô thường rồi thì tâm ta sẽ không còn bị vướng mắc vào đâu nữa.”, ngài hoát nhiên đại ngộ! Vì chuyên tu mật hạnh nên nếp sống của ngài rất bình lặng, không có gì sôi nổi, không có tiếng tăm lừng lẫy như quí vị tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan, Phú Lâu Na v.v... Ngài nhập diệt khoảng năm 51 tuổi, trước cả đức Phật và ni sư Da Du Đà La.

MƯỜI VIỆC THIỆN (thập thiện)
Một hành động được gọi là “thiện” khi nó đem lại sự an vui, hạnh phúc, giải thoát và giác ngộ cho mình, cho mọi người và mọi loài. Ngược lại thì là “ác”, hay “bất thiện”. Người tu học thì dĩ nhiên suốt đời chỉ nguyện làm việc thiện và tránh làm tất cả những việc bất thiện. Một cách tổng quát, có mười loại việc thiện như sau:
1. Không giết hại sinh mạng cũng như không tán thành và khuyến khích sự giết hại. Phải tìm mọi cách có thể để bảo vệ sinh mạng. Phải chọn những công việc mưu sinh nào không gây tàn hại cho con người, loài vật và thiên nhiên.
2. Không lấy làm tư hữu những tiền bạc và của cải không do chính mình tạo ra hoặc không do người khác biếu tặng. Không gây dựng tài sản bằng những phương cách bất hợp pháp. Phải tôn trọng quyền tư hữu của người khác, nhưng đồng thời cũng phải biết tìm cách ngăn chận, khuyến hóa những kẻ làm giàu bất lương trên sự đau khổ của quần chúng bị áp bức, thua thiệt.
3. Dù là độc thân hay đã lập gia đình cũng không được phá hoại danh dự và hạnh phúc của bản thân hoặc gia đình mình, cũng như của người hoặc gia đình người khác, tức là không tà hạnh, không ăn nằm với những người chưa hoặc không phải là vợ hay chồng mình. Phải ý thức được những đổ vỡ, những khổ đau mà mình có thể gây ra cho người khác vì hành động bất chính của mình. Và do đó, cần phải tích cực bảo vệ danh dự và hạnh phúc cho bản thân và gia đình mình cũng như cho người và gia đình người khác.
4. Không nói những lời dối trá, thêu dệt, điêu ngoa, xúc siểm nhằm khoa trương và mưu cầu danh lợi, địa vị cho mình, hoặc để vu oan giá họa cho người. Phải thành thật nhìn nhận những sai lầm của mình để hối cải. Phải can đảm nói lên sự thật để cứu người vô tội, cũng như để phơi bày những âm mưu gian dối, xảo trá, bất công và tàn ác. Phải luôn luôn đối xử chân thật với mọi người.
5. Không nói lời li gián nhằm gây nên không khí bất hòa giữa những người khác, tạo sự chia rẽ và đổ vỡ trong tổ chức, đoàn thể. Phải nói lời xây dựng, hòa giải. Phải tạo sự đoàn kết giữa mọi người.
6. Không nói lời ác độc, hung dữ, cộc cằn, lỗ mãng như cãi vã to tiếng, chửi mắng hay nguyền rủa, tạo nên sân hận, oán thù. Phải nói lời ôn hòa, nhã nhặn, dịu dàng nhằm tạo sự thông cảm, thương yêu, hòa điệu.
7. Không nói những lời thô tục, dâm đãng. Không dùng lời lẽ trau chuốt ngọt ngào cốt mê hoặc, dụ dỗ người. Không nói những lời vô ích. Không lên án hoặc rao truyền những điều mà mình không thấy biết rõ ràng, chính xác. Không nói những lời gây hoang mang cho mọi người. Phải nói những điều đứng đắn và xác thực hầu đem lại sự hiểu biết chính đáng cho người. Những lời nói như vậy lúc nào cũng có ích và luôn luôn tạo được niềm an vui và gây tin tưởng cho người nghe.
8. Không để cho tâm tham dục điều khiển mình. Phải thường xuyên tỉnh thức, không để cho bị quyến rũ bởi năm thứ dục vọng rồi lấy đó làm mục đích chính của đời mình. Phải biết sống giản dị để dùng thì giờ và khả năng của mình phụng sự xã hội. Phải biết san sẻ những gì mình có thể san sẻ được để giúp đỡ người trong mọi hoàn cảnh khổ đau.
9. Phải ngăn ngừa, đừng để cho tâm sân hận và oán thù phát sinh. Nếu nó đã phát sinh thì đừng để nó tồn tại và phát triển, mà phải tìm mọi cách hữu hiệu (như theo dõi hơi thở, quán niệm về từ bi và duyên sinh chẳng hạn) để tiêu diệt nó ngay. Luôn luôn đối xử với mọi người bằng thái độ hòa nhã, khiêm tốn và vui vẻ.
10. Không có thái độ cuồng tín đối với những điều không do trí tuệ soi sáng. Không mù quáng tin theo những tà thuyết trái chống với những nguyên lí nhân quả, duyên sinh, vô thường, vô ngã v.v... Không cố thủ những tri kiến sai lầm của mình và gạt bỏ tri kiến của người. Không phẩm bình người khác bằng những thành kiến hẹp hòi, cố chấp của mình. Phải học tập thái độ phá chấp và biết cởi mở để lắng nghe quan điểm của kẻ khác. Phải luôn luôn tìm cầu học hỏi để phát huy trí tuệ và dùng trí tuệ ấy để soi sáng, làm hiển lộ sự thật duyên sinh trong mọi vấn đề liên quan đến bản thân, con người, mọi loài, và vũ trụ.
Mười việc thiện trên đây là những nguyên tắc hướng dẫn cuộc sống gia đình và xã hội của đạo Phật, được dùng làm giới luật hành trì cho chúng cư sĩ tại gia, cho nên cũng được gọi là “Giáo luật mười việc thiện” (thập thiện giới), có thể đọc tụng tại gia đình mỗi tháng một hay hai lần.

 
 
Biên tập: Cư sĩ Hạnh Cơ
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Giới Thiệu:

    Chùa Sắc Tứ Khải Đoan là ngôi chùa đầu tiên của tổ chức Phật Giáo có mặt tại Đaklak, được xây dựng vào năm 1951. chùa tọa lạc trên khu đất rộng 7 mẫu 8 sào 28m2, do Đoan Huy Hòang Thái Hậu Hòang Thị Cúc hiến cúng cho Tổng Hội Phật Giáo trung phần.

Thông báo

Số Lượng truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 80


Hôm nayHôm nay : 13636

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 541173

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 32039812


Thiết kế website