SỐ 7
BẢY BÁU (thất bảo)
1. Vàng (kim, hay hoàng kim): Theo luận Đại Trí Độ, vàng là do từ cát đá, đồng đỏ trong núi sinh ra. Vàng có bốn đặc điểm: màu sắc không biến đổi; thể chất không ô nhiễm; thay đổi hình trạng (từ vòng sang xuyến, sang tượng cốt, chén đĩa, v.v...) không bị trở ngại; làm cho người ta trở nên giàu sang. Bốn đặc điểm này cũng có thể dùng làm tỉ dụ cho bốn đức Thường, Tịnh, Ngã và Lạc của pháp thân Phật. Cũng từ những ý nghĩa đó, thân của Phật tốt đẹp trang nghiêm vi diệu, nên được gọi là “kim thân”.
2. Bạc (ngân, hay bạch ngân): Theo luận Đại Trí Độ, bạc là do từ đá cháy sinh ra. Vàng và bạc là hai loại quí kim mà mọi người đều biết; riêng trong Phật giáo, đôi khi chúng được dùng để chỉ cho các chốn già lam, như “kim địa”, “ngân địa”, v.v...
3. Lưu-li (hay tì-lưu-li): một loại đá ngọc màu xanh, ánh sáng trong suốt, là thần vật sinh từ thiên nhiên, không phải do người làm được. Tuy nhiên, cũng có thứ ngọc lưu-li do người luyện thành, nhưng đó chỉ là loại ngọc giả mà thôi. Ngày xưa nước Tần (Trung-quốc) nổi tiếng có nhiều loại ngọc thiên nhiên; riêng ngọc lưu-li này cũng có đến mười loại (màu): đỏ, hồng, trắng, đen, tím, vàng, xanh, lam nhạt, da trời, và lá cây.
4. Pha-lê (tức thủy-tinh): Theo luận Đại Trí Độ, hai loại lưu-li và pha-lê là do từ trong các hang núi sinh ra. Giá tuyết đóng băng, trải qua ngàn năm thì thành ngọc, gọi là pha-lê (nghĩa là ngọc nước). Loại thủy tinh ngày nay thường dùng làm các vật gia dụng như li, chén, bình cắm hoa, v.v..., là do con người lấy cát chế biến ra, không phải là ngọc pha-lê thiên nhiên nói trên.
5. Xa-cừ: một loại ốc biển rất lớn, vỏ dầy và cứng. Mặt ngoài của vỏ có nhiều lằn sâu như khắc, mặt trong thì trắng, sáng như ngọc; cho nên được xem là một loại đá ngọc, và được chế biến thành các vật trang sức quí giá. Cũng có người gọi loại san-hô trắng là xa-cừ. Nhưng, từ điển Từ Nguyên còn dẫn ở sách Nghệ Văn Loại Tụ của Trung-quốc, có điều mục nói rằng, xa-cừ là một loại ngọc quí ở Tây-vực; và đó mới là một trong bảy món báu đề cập ở đây.
6. Xích-châu (hay xích-chân-châu): là một loại ngọc màu đỏ, do một loài sâu đỏ sinh ra. Theo luận Đại Trí Độ, loại chân-châu này cực kì quí báu, không phải là san-hô. Loại chân-châu thường thì có màu xám hoặc xám nhạt, nhưng loại xích-chân-châu thì có ửng màu đỏ; nếu được loại màu thuần đỏ thì quí giá vô cùng, trên đời hiếm thấy.
7. Mã-não: là loại ngọc quí màu xanh biếc, rất sáng; khác với loại mã-não thường thấy, là loại đá có vân đỏ.
BẢY CÁI THẤY ĐIÊN ĐẢO (thất điên đảo)
“Điên đảo”, nói tắt là “đảo”, có nghĩa là đảo lộn sự thật, trái ngược với sự thật. Người phàm phu vì không có trí tuệ nên đối với mọi sự lí ở đời, luôn luôn có 7 tư tưởng điên đảo như sau:
1. Tưởng đảo: tư tưởng điên đảo, ví dụ, vạn pháp do duyên sinh mà cho là do một vị thượng đế sáng tạo, v.v...
2. Kiến đảo: tức là tà kiến, như không tin nhân quả nghiệp báo, mà tin vào quyền năng của ông thần này, bà chúa kia, v.v...
3. Tâm đảo: tức vọng tâm, đối với sự việc gì cũng nghĩ quấy, thấy biết sai lạc, rồi khởi niệm tham lam, ganh tị, sân hận, oán thù, v.v...
4. Thường đảo: vạn pháp ở thế gian là vô thường mà cho là thường hằng, sinh tâm bám chặt không rời.
5. Lạc đảo: Thế gian là một biển khổ mênh mông, nhưng cứ cho là vui sướng, cho nên luôn luôn tham đắm, đeo đuổi, để rồi gây bao tội lỗi mà không biết hồi tâm.
6. Tịnh đảo: Thế gian đầy dẫy phiền não cấu uế, mọi sự đều bất tịnh, nhưng cứ cho là tịnh, rồi mải mê tham cầu bám giữ, gây bao điều ác, ưu phiền cho mình và mọi người, mà không biết hướng thiện.
7. Ngã đảo: Tự thân và vạn pháp ở thế gian đều là vô ngã, nhưng cứ cho là có ngã chân thật, cho nên tham cầu, giữ chặt, ích kỉ, ngạo mạn, không biết buông xả, không biết vì người làm điều lợi ích, v.v...
BẢY CHÚNG (thất chúng)
“Bảy chúng” tức 7 loại đệ tử (kể cả xuất gia và tại gia) làm thành giáo đoàn của Phật:
1. Tì kheo: nam giới xuất gia đã đủ 20 tuổi.
2. Tì kheo ni: nữ giới xuất gia đã đủ 20 tuổi.
3. Sa di: nam giới xuất gia dưới 20 tuổi.
4. Sa di ni: nữ giới xuất gia dưới 20 tuổi.
5. Thức xoa ma na: tên gọi vị sa di ni trong thời gian chuẩn bị (2 năm) để trở thành tì kheo ni.
6. Ưu bà tắc: nam cư sĩ tại gia.
7. Ưu bà di: nữ cư sĩ tại gia.
BẢY CHUYỂN THỨC (thất chuyển thức)
Theo Duy Thức Học, trong tám thức (sẽ trình bày trong mục “Tám Thức” ở sau) thì thức a-lại-da là “căn bản thức”; bảy thức còn lại là mạt-na thức, ý thức, nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức và thân thức, đều do căn bản thức chuyển biến và biểu hiện ra, cho nên bảy thức này được gọi là “chuyển thức”.
BẢY ĐIỀU KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI (thất pháp bất khả tị)
1. Sinh ra đời là điều không thể tránh khỏi (sinh bất khả tị). Kiếp trước đã tạo nghiệp nhân (dù thiện, dù bất thiện) thì kiếp này phải sinh ra đời để nhận lấy kết quả của nghiệp, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.
2. Già nua là điều không thể tránh khỏi (lão bất khả tị). Thân này đã được sinh ra thì phải có lúc già yếu, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.
3. Bệnh là điều không thể tránh khỏi (bệnh bất khả tị). Thân này đã được sinh ra thì phải có lúc bị đau bệnh, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.
4. Chết là điều không thể tránh khỏi (tử bất khả tị). Đã có sinh thì phải có tử, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.
5. Quả báo của tội lỗi là điều không thể tránh khỏi (tội bất khả tị). Đã gây ra những nghiệp nhân tội lỗi thì phải nhận chịu những quả báo đau khổ, trầm luân, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.
6. Quả báo của thiện nghiệp là điều không thể tránh khỏi (phúc bất khả tị). Đã tạo ra những nghiệp nhân tốt lành thì phải hưởng được những quả báo an vui, hạnh phúc, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.
7. Duyên sinh là điều không thể tránh khỏi (nhân duyên bất khả tị). Tất cả mọi hiện tượng đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh thành, tất cả những sự việc như tốt, xấu, họa, phúc, giàu, nghèo, sống lâu, chết yểu v.v... cũng không ngoài đạo lí ấy, đó là điều không thể nào tránh khỏi được.
“Bảy điều không thể tránh khỏi” trên đây là những sự thật của đời sống, hành giả có thể dùng để thực tập như là những đề tài quán chiếu trong lúc thiền tập. Các điều số 1, số 2, số 3 và số 4 sẽ giúp cho hành giả đánh tan được mọi nỗi lo âu, sợ hãi, chán nản, thất vọng khi đối diện trước những khổ đau của kiếp sống; các điều số 5 và số 6 sẽ giúp cho hành giả thấy rõ hậu quả của những hành động của chính mình, đánh tan mọi hoài nghi, thắc mắc để vững chí, kiên trì (tinh tấn) trong việc chuyển hóa thân tâm; điều số 7 giúp hành giả phá vỡ màn vô minh từ lâu đã từng che khuất trí tuệ, thấy rõ chân tướng của thực tại vạn hữu. Một cách tóm tắt, khi đã ngộ được 7 điều trên đây thì hành giả tức khắc vượt thoát sinh tử.
BẢY ĐỨC PHẬT ĐỜI QUÁ KHỨ (thất Phật - quá khứ thất Phật))
7 đức Phật đời quá khứ gồm có đức Phật Thích Ca Mâu Ni và 6 đức Phật từng thị hiện trong thế gian trước đó: Phật Tì Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tì Xá Phù, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, và Phật Ca Diếp. Mỗi đức Phật đều truyền lại một bài kệ, trong đó, bài kệ của đức Phật Ca Diếp là được thông dụng nhất; kinh Tăng Nhất A Hàm (Hán văn) ghi lại bài kệ ấy như sau:
Chư ác mạc tát (không làm các việc ác)
Chư thiện phụng hành (luôn làm các việc lành)
Tự tịnh kì ý (giữ tâm ý trong sạch)
Thị chư Phật giáo (đó là lời dạy của chư Phật)
BẢY LOẠI LẠY PHẬT (thất chủng lễ Phật)
1. Lạy Phật với tâm ngã mạn (ngã mạn lễ). Người lạy Phật, thấy người ta lạy thì mình cũng lạy, thân tuy lễ lạy nhưng trong lòng miễn cưỡng, tự cho mình là tài giỏi, không cung kính chí thành, không cảm nhận được ân đức sâu dầy của Phật, không xem Phật là bậc Đạo Sư cao cả của mình.
2. Lạy Phật với tâm cầu danh (cầu danh lễ). Người lạy Phật chỉ vì muốn người ta khen ngợi mình là người siêng năng tu hành, chứ thực sự trong tâm không phải vì tưởng nhớ ân sâu của Phật, không vì thành tâm cúng dường mà lạy Phật.
3. Lạy Phật bằng cả thân tâm (thân tâm lễ). Người lạy Phật, miệng niệm danh hiệu Phật, tâm quán tưởng hình tướng trang nghiêm tốt đẹp của Phật, không có tạp niệm nào khác, thân tâm đều chí thành tha thiết, cung kính cúng dường.
4. Lạy Phật bằng trí tuệ thanh tịnh (phát trí thanh tịnh lễ). Người lạy Phật, tâm tuệ sáng suốt, đạt cảnh giới của Phật, trong ngoài thanh tịnh, thông suốt không chướng ngại; lạy một đức Phật tức lạy tất cả chư Phật, lạy tất cả chư Phật tức lạy một đức Phật; cho nên chỉ một lạy mà thông khắp pháp giới. Lạy Phật, lạy Pháp, lạy Tăng đều như vậy.
5. Lạy Phật với thân tâm thâm nhập khắp pháp giới (biến nhập pháp giới lễ). Người lạy Phật, quán tưởng thân tâm mình xưa nay vốn không xa rời pháp giới, chư Phật vốn không xa rời tâm mình, tâm mình vốn không xa rời chư Phật, tánh tướng bình đẳng, không tăng không giảm. Nay lạy một đức Phật, tức thông khắp chư Phật. Quán tưởng như thế thì công đức qui về pháp giới, mà diệu dụng vô biên.
6. Lạy Phật tánh nơi chính mình (chánh quán tu thành lễ). Người lạy Phật, nhiếp tâm chánh niệm, đối trước thân Phật, cũng tức là lễ bái Phật tánh nơi chính mình.
7. Lạy Phật thật tướng bình đẳng (thật tướng bình đẳng lễ). Người lạy Phật, tâm hoàn toàn bình đẳng, không thấy có Phật và có mình khác nhau, phàm và thánh là nhất như, thể dụng không hai.
Trong 7 loại lạy Phật ở trên, 2 loại đầu là lạy Phật với tâm bất chánh, gây lỗi lầm, người tu học Phật không nên lạy Phật cách như thế; còn 5 loại sau là những cách lạy Phật chân chính, nên tu tập thường xuyên, sẽ tạo được công đức vô biên.
BẢY LOẠI TÂM SÁM HỐI (thất chủng sám hối tâm)
1. Phát sinh tâm hổ thẹn (sinh đại tàm quí tâm). Nguyên đức Thế Tôn và chúng ta đều là phàm phu, nhưng đức Thế Tôn thì đã thành Phật từ lâu, còn chúng ta thì đến bây giờ vẫn còn trầm luân trong biển sinh tử, chưa biết đến bao giờ mới thoát khỏi! Nghĩ như thế mà sinh tâm hổ thẹn, và phát lồ sám hối.
2. Phát sinh tâm sợ sệt (sinh khủng bố tâm). Hạng phàm phu chúng ta, thân ngữ ý thường tạo ác nghiệp, gây tội lỗi triền miên, nhân đó mà sau khi mạng chung, sẽ phải đọa lạc vào các đường dữ, như Địa-ngục, Ngạ-quỉ, hoặc Súc-sinh, nhận chịu quả báo đau khổ cùng cực. Nghĩ như thế mà sinh tâm sợ sệt, và phát lồ sám hối.
3. Phát sinh tâm nhàm chán rời bỏ (sinh yếm li tâm). Chúng ta lưu chuyển trong biển sinh tử, hư giả không chân thật, giống như bọt nước vừa nổi lên liền tiêu mất. Thân này là tập hợp của mọi điều khổ đau, gom chứa toàn những vật bất tịnh. Nghĩ như thế mà sinh tâm chán bỏ, và phát lồ sám hối.
4. Phát sinh tâm bồ đề (phát bồ đề tâm). Muốn thành tựu thân tướng Như Lai, chúng ta phải phát lồ sám hối tội chướng từ bao đời, rồi phát tâm bồ đề thệ nguyện cứu độ chúng sinh, dù phải bỏ cả tài sản thân mạng cũng không luyến tiếc.
5. Phát tâm bình đẳng (oán thân bình đẳng tâm). Tâm ý từ lâu vốn phân biệt chấp trước, hễ khởi niệm liền có nhân có ngã, đối xử thì coi trọng người thân mà khinh ghét kẻ oán. Nay phát lồ sám hối, nguyện phát khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sinh, cứu độ một cách bình đẳng, không phân biệt kẻ oán người thân, không dính mắc tướng nhân tướng ngã.
6. Tâm luôn ghi nhớ báo ân Phật (niệm báo Phật ân tâm). Đức Thế Tôn đã trải qua vô lượng kiếp tu hành khổ hạnh, chỉ vì tâm từ bi muốn cứu độ chúng ta. Ân đức ấy thật khó báo đáp. Vậy, chúng ta trong đời này phải luôn luôn nghĩ nhớ ân đức ấy của Phật; và cố gắng báo đáp ơn Phật bằng cách chí thành sám hối tội chướng sâu dầy, phát tâm dũng mãnh tinh tấn tu tập, cứu độ chúng sinh đồng thành Chánh giác.
7. Quán chiếu bản tánh của tội lỗi là không (quán tội tánh không). Bản tánh của tội lỗi vốn không, không có thật thể, chỉ là do nhân duyên điên đảo mà phát sinh. Vì vậy, công phu sám hối ở giai đoạn này là dùng trí tuệ bát nhã quán chiếu, để thấy rõ tội lỗi chỉ là duyên sinh, bản tánh của chúng xưa nay vốn không tịch, không có cái gì gọi là “tội”. Tâm vọng động đã tiêu trừ thì tội lỗi cũng không do đâu mà sinh khởi. Đó là sự sám hối chân thật nhất.
BẢY NGUYÊN TỐ (thất đại)
Bảy nguyên tố gồm đất (địa đại), nước (thủy đại)), lửa (hỏa đại), gió (phong đại), hư không (không đại), tánh thấy biết (kiến đại) tánh phân biệt (thức đại).
Trong mục “Bốn Nguyên Tố” (tứ đại) ở trước, các nguyên tố địa, thủy, hỏa, phong, không, và thức, đã được trình bày rõ ràng, ở đây xin nói thêm về “kiến đại”. Chữ “kiến” là một thuật ngữ Phật học, trong các bộ Luận như Đại Tì Bà Sa, Câu Xá v.v..., nó được giải thích là nhìn thấy, suy lường, chấp trước; trong Kinh Lăng Nghiêm, nó có nghĩa là tánh thấy của nhãn căn, vì tánh của sắc pháp phủ trùm pháp giới nên tánh thấy này cũng phủ trùm pháp giới. Đó là ý nghĩa của “kiến đại”.
7 nguyên tố (thất đại) là thể tánh của vạn pháp (gồm sắc pháp và tâm pháp). Đất, nước, lửa, gió gọi là “bốn đại”, là thể của sắc pháp; vạn pháp sinh thành đều không ra ngoài bốn nguyên tố này. Bốn nguyên tố ấy lại nương nơi hư không (không đại) mà được kiến lập, nương nơi tánh thấy (kiến đại) mà được nhận biết, nương nơi tánh phân biệt (thức đại) mà được hiểu biết rõ ràng. Trong 7 nguyên tố đó thì 5 nguyên tố đầu là đất, nước, lửa, gió và hư không thuộc về sắc pháp; 2 nguyên tố sau là tánh thấy và tánh phân biệt thuộc về tâm pháp. Các loài hữu tình thì đầy đủ cả 7 nguyên tố; các loài vô tình chỉ có 5 nguyên tố đầu mà thôi.
Nếu nhìn phối hợp với “18 khu vực” (thập bát giới – xin xem mục “Mười Tám Khu Vực” ở sau), thì 5 nguyên tố đầu tương đương với 6 cảnh; nguyên tố thứ sáu, kiến đại, tương đương với 6 căn; và nguyên tố thứ bảy, thức đại, tương đương với 6 thức.
BẢY PHÁP TÀI (thất pháp tài - thất thánh tài)
“Pháp tài” là sự giàu có về tâm linh (khác với sự giàu có về vật chất), là của cải, vốn liếng tinh thần mà hành giả luôn luôn dùng làm hành trang trên suốt con đường tu học và phụng sự chúng sinh, cho đến khi đạt được quả vị giác ngộ. Có bảy thứ pháp tài:
1. Đức tin (tín tài).
Đức tin là loại của cải căn bản và cần thiết trước nhất mà hành giả phải có. Nó chính là lương thực để nuôi sống hành giả. Đức tin ở đây không phải là thứ tín ngưỡng mù quáng, mà là niềm tin tưởng có được do sự quán sát, phán đoán, nhận định và thực nghiệm; cho nên đã có đức tin thì sẽ có quyết định hành động, không có đức tin thì sẽ không có gì cả.
2. Chí kiên trì (tinh tấn tài).
Ngọn lửa nung hoài thì hạt bắp trong nồi sẽ bung ra; ánh sáng mặt trời chiếu rọi hoài thì cái hoa phải nở. Chí kiên trì (hay đức tinh tấn) đối với người tu học cũng giống như ngọn lửa đối với nồi bắp hay ánh sáng mặt trời đối với bông hoa, là năng lượng chính yếu mà nếu được nung nấu một cách bền bỉ, liên tục thì bông hoa giác ngộ nơi hành giả, một ngày nào đó cũng sẽ nở ra rạng rỡ.
3. Giới luật (giới tài).
Nếu đức tin là lương thực thì giới luật vừa là sư trưởng, vừa là thiện tri thức, và cũng vừa là y phục quí báu nhất của người tu học. Nó ngăn ngừa mọi lỗi lầm về cả thân, khẩu và ý; và do đó, nó còn là chiếc chìa khóa để cho hành giả dùng mở cánh cửa giác ngộ. (Xin xem lại ý nghĩa và tính chất của “Giới” trong mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở trước.)
4. Tâm hổ thẹn (tàm quí tài).
Biết hổ thẹn đối với những lỗi lầm của chính mình (tàm), và biết hổ thẹn khi thấy mình không siêng năng, trong sạch, tỉnh thức bằng người khác (quí), đó là hai món đồ trang sức đẹp đẽ nhất của người tu học. Trong khi tính tự mãn, kiêu ngạo sẽ đưa hành giả xa rời dần quả vị giác ngộ, thì tâm biết hổ thẹn sẽ đưa hành giả ngày càng đến gần với
quả vị giác ngộ. Kinh Di Giáo dạy: “Tâm biết hổ thẹn là món đồ trang sức đẹp nhất trong các món đồ trang sức. Cũng như cái móc sắt, tâm biết hổ thẹn có thể chế ngự tất cả mọi lầm lỗi của con người. Bởi vậy, người tu học lúc nào cũng nên biết hổ thẹn.”
5. Lắng nghe (văn tài).
Lắng nghe là nghe trong tỉnh thức. Lắng nghe (văn), rồi suy gẫm, quán chiếu (tư) về điều mình nghe, và đem áp dụng những điều ấy vào nếp sinh hoạt hằng ngày (tu), đó là ba phương pháp tu học có năng lực làm phát sinh trí tuệ (tam tuệ học). “Lắng nghe” ở đây phải được coi là giác quan của người tu học. Hành giả sử dụng các giác quan của mình một cách tinh thục trong đời sống thì sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc cho chính mình và mọi người, mọi loài. Vì vậy, biết lắng nghe cũng là một trong những hành trang cần thiết của hành giả trên đường đi đến giác ngộ.
6. Buông bỏ (xả tài).
Buông bỏ là tiếng dùng để diễn tả đức độ của người khi đạt được tâm bình đẳng, nghĩa là đã dứt bỏ được những “sở tri”, những thành kiến, cố chấp, phân biệt tốt xấu, bạn thù, thương ghét v.v.... Có đức xả thì tâm từ bi trở nên vô cùng rộng lớn; do đó, sự thực hành bố thí của hành giả sẽ vô cùng lợi lạc và không biên giới. Vì vậy, “xả” chính là thứ phương tiện chuyên chở tốt nhất để đưa hành giả đi khắp các nẻo đường phụng sự xã hội, và cuối cùng là đến quả vị giác ngộ. (Xin xem lại mục “Bốn Tấm Lòng Rộng Lớn” ở trước.)
7. Định và Tuệ (định tuệ tài).
Làm cho sự lãng quên, tâm loạn động dừng lại (chỉ) thì định lực (định) phát sinh. Quán chiếu để thấy rõ (quán) chân tướng thực tại thì trí tuệ (tuệ) phát sinh. Nói cách khác, “định tuệ” là kết quả có được từ “chỉ quán”; cho nên chỉ quán và định tuệ lúc nào cũng không rời nhau, và trở nên các thành phần chủ yếu của giác ngộ. Hay có thể nói một cách chính xác hơn, định tuệ chính là bản thân của giác ngộ. Hành giả có thể tu tập hết mọi phương pháp, nhưng nếu không có định tuệ thì quả vị giác ngộ vẫn là một cái gì hết sức xa vời, không làm sao với tới được. Vậy, định tuệ phải được coi chính là hơi thở của hành giả. Hành giả nắm giữ định tuệ như nắm giữ hơi thở của mình.
Bảy thứ pháp tài trên đây cũng được coi là bảy thứ thánh tài, tức là bảy thứ của cải của các thánh nhân, được liệt kê ở nhiều kinh, và có khác nhau chút ít. Theo các kinh Bảo Tích và Niết Bàn, chúng gồm có: tín, giới, văn, tàm, quí, xả, và tuệ (tàm quí được chia làm hai, và không có tấn). Kinh Pháp Cú: tín, giới, tàm, quí, văn, bố thí, và tuệ (tàm quí được chia làm hai, không có tấn và xả, thêm bố thí). Kinh Báo Ân: tín, tấn, giới, tàm quí, văn xả, nhẫn nhục, và định tuệ (văn và xả hợp làm một, thêm nhẫn nhục).
BẢY PHÉP BẤT THỐI (thất bất thối pháp)
“Các vị khất sĩ! Như Lai sẽ chỉ dạy cho các vị bảy phương pháp để giữ gìn cho chánh pháp và giáo đoàn không bị suy thoái. Các vị hãy lắng nghe.
“Thứ nhất là các vị nên thường xuyên gặp mặt nhau trong những buổi họp mặt đông đủ để học hỏi và luận bàn về chánh pháp.
“Thứ hai là các vị tới với nhau trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết, và chia tay nhau trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết.
“Thứ ba là cùng tôn trọng và sống theo giới luật và pháp chế một khi những giới luật và pháp chế ấy đã được ban hành.
“Thứ tư là biết tôn trọng và vâng lời các bậc trưởng lão có đạo đức và kinh nghiệm trong giáo đoàn.
“Thứ năm là sống một nếp sống thanh đạm và giản dị, đừng để bị lôi cuốn vào tham dục.
“Thứ sáu là biết quí đời sống tĩnh mặc.
“Thứ bảy là biết an trú trong chánh niệm để thực hiện an lạc và giải thoát, làm chỗ nương tựa cho các bạn đồng tu.
“Này các vị khất sĩ! Chừng nào mà các vị còn thực hiện được bảy điều ấy – gọi là bảy phép bất thối, thì đạo pháp còn hưng thịnh và giáo đoàn không bị suy thoái. Không một yếu tố nào bên ngoài có thể phá hoại được giáo đoàn. Chỉ có những phần tử từ bên trong giáo đoàn mới có thể làm cho giáo đoàn tan rã mà thôi. Các vị khất sĩ! Khi con sư tử chúa của mọi loài ở chốn sơn lâm ngã quị, không có một loài nào dám đến ăn thịt nó; chỉ có những con trùng phát sinh từ bên trong thân thể của sư tử mới ăn thịt được sư tử mà thôi. Các vị hãy bảo vệ chánh pháp bằng cách sống theo bảy phép bất thối, đừng bao giờ tự biến mình thành những con trùng trong thân thể của con sư tử.”
(Trích trong Đường Xưa Mây Trắng của Thích Nhất Hạnh, San Jose, Lá Bối in lần thứ hai - 1992, trang 546 - 547. Hai câu được in chữ đậm trong đoạn trên là chủ ý của soạn giả HC.)
BẢY PHÉP HÒA GIẢI (thất diệt tránh pháp)
“Diệt tránh” nghĩa là dập tắt sự tranh cãi, xung đột. Trong đời sống tập thể, nhiều khi có những ý kiến bất đồng về một vấn đề, khiến đưa tới xích mích, tranh cãi, làm mất đi cái không khí hòa hợp giữa đại chúng. Sự tranh cãi thường xảy ra khi hai hoặc nhiều người, trong lúc học tập chung, đã có những kiến giải khác nhau về cùng một vấn đề, hoặc không đồng ý với nhau về việc thực thi một biện pháp, một kế hoạch, và nhất là khi phải phán quyết hành vi của một vị nào đó là có tội hay vô tội, hoặc tội nặng hay tội nhẹ, hoặc người phạm tội không chịu nhận tội v.v... Để tránh xảy ra những trường hợp làm mất hòa khí như vậy, đại chúng thường áp dụng bảy biện pháp dập tắt sự tranh cãi (thất diệt tránh pháp) nhằm đem lại không khí hòa hợp cho tập thể. Tuy bảy biện pháp này thuộc về giới luật tì kheo và tì kheo ni, nhưng vì sự ích lợi rộng rãi và thiết thực, chúng có thể được đem áp dụng trong bất cứ một tăng thân tu học nào. Bảy biện pháp đó là:
1. Biện pháp “hiện tiền”: Hai bên bất đồng ý kiến được mời đối diện trực tiếp tranh luận trước đại chúng, dùng kinh luận hoặc giới luật đối chiếu để soi rõ vấn đề; từ đó tìm ra các lẽ phải trái, và cùng nhau chấm dứt tranh cãi.
2. Biện pháp “ức niệm”: Cho nhân chứng trần thuật những sự việc đã tuần tự xảy ra, cùng những nguyên cớ nào đã đưa đến sự xung đột hiện tại; từ đó tìm ra lẽ phải trái để hòa giải xung đột.
3. Biện pháp “bất si”: Nếu có chứng cớ rằng, hành động trái phép đã xảy ra khi đương sự đang ở trong tình trạng tâm ý cuồng loạn, hoặc đã hành động một cách không có ý thức, hoặc đương sự không ngoan cố ngụy biện để tự bào chữa trong lúc luận tội, thì sẽ không xảy ra sự tranh cãi.
4. Biện pháp “tự ngôn”: Không dùng uy lực của đại chúng để áp đảo tinh thần đương sự, nhưng tạo điều kiện thuận lợi để cho đương sự tự phản tỉnh và thành thực bộc lộ sự sai quấy của mình. Điều này hết sức quan trọng vì nó ngăn chận được sự tranh luận ngay từ lúc đầu.
5. Biện pháp “đa ngữ”: Nếu sự tranh luận đã kéo dài mà không đưa đến kết quả nào thì đại chúng có thể dùng phương pháp biểu quyết (hoặc công khai, hoặc bỏ phiếu kín); ý kiến của bên đa số sẽ là ý kiến quyết định.
6. Biện pháp “tội xử sở”: Nếu một đương sự quả thật có hành động lầm lỗi mà cứ chối cãi quanh co, không chịu nhận lỗi, thì đại chúng có thể dùng phương pháp “yết ma”(1), hỏi ba lần, nếu trong đại chúng không có ai phản đối thì hình phạt sẽ đương nhiên có hiệu lực đối với đương sự.
7. Biện pháp “thảo phú địa”: Nếu sự việc quá nghiêm trọng và phức tạp mà đại chúng thấy lúng túng, không quyết định, thì đại chúng có thể trình sự việc ấy lên quí vị cao cấp trong hàng giáo phẩm của tu viện hoặc hội đồng giáo hội để nhờ phán quyết.
Trong khi áp dụng, không nhất thiết là phải dùng hết cả bảy biện pháp này cùng một lúc, nhưng tùy mỗi trường hợp, đại chúng có thể dùng một, hoặc hai, hoặc nhiều hơn, miễn sao chấm dứt được tranh cãi và thực hiện được sự hòa giải, đem lại không khí yên tĩnh, hòa hợp trong đại chúng.
(1) “Yết ma” là một thuật ngữ đặc biệt dùng trong phạm vi giới luật, dịch là “tác nghiệp”, nghĩa là những sực việc đã làm. Đó là một loại nghi thức có văn tuyên cáo khi làm các nghiệp sự liên quan tới giới luật như thọ giới, bố tát, sám hối v.v... Nhờ có sự tuyên cáo rõ ràng ấy mà nghi thức được thành tựu. Nội dung của nghi thức yết ma phải gồm đủ 4 pháp (yết ma tứ pháp): 1. Pháp, tức tác pháp yết ma được cử hành đúng pháp; 2. Sự, tức tác pháp yết ma được cử hành vì có liên quan đến những sự thật như phạm tội, sám hối v.v...; 3. Nhân, tức người có mặt, tùy theo sự việc mà số người tham dự được qui định có con số nhất định; 4. Giới, tức địa giới, nơi chỗ được chọn để tiến hành nghi thức yết ma.
BẢY YẾU TỐ GIÁC NGỘ (thất giác chi - thất giác ý - thất giác phần - thất bồ đề phần)
Đây là bảy yếu tố tạo nên quả vị giác ngộ. Theo kinh Niết Bàn, bảy yếu tố này gồm có:
1. Chánh niệm (niệm giác phần): thường xuyên an trú trong chánh niệm.
2. Chọn lựa pháp môn (trạch pháp giác phần - phân biệt giác phần): Chữ “trạch” ở đây có nghĩa là tư duy và khảo sát. Mọi sự việc ở đời đều có những sự việc thiện và những sự việc bất thiện, trong nội tâm cũng có những tư tưởng thiện và những tư tưởng bất thiện. Có dùng trí năng để tư duy và khảo sát thì mới thấy rõ được cái gì là thiện nên tu tập và cái gì là bất thiện cần phải được chuyển hóa.
3. Kiên trì (tinh tấn giác phần): bền chí tu tập, không biếng nhác, không gián đoạn.
4. Vui vẻ (hỉ giác phần): tâm ý vui vẻ, lời nói ôn hòa, thái độ nhã nhặn.
5. Thư nhẹ (khinh an giác phần): tâm thư thái, nhẹ nhàng, mọi phiền não, kiến chấp đều rũ bỏ.
6. Tĩnh lặng (định giác phần): tâm ý hoàn toàn tĩnh lặng, không còn tán loạn, không còn vọng tưởng.
7. Buông bỏ (xả giác phần): rũ bỏ hết mọi “sở tri”, mọi kiến chấp về ngã và pháp, tâm hoàn toàn trong sáng, bình đẳng. Vì “sở tri” (hay kiến chấp) thuộc về tư tưởng, tức là “hành uẩn” trong năm uẩn, cho nên “xả giác phần” ở đây cũng còn được gọi là “hành xả giác phần”.
Khi công phu tu tập bảy yếu tố này đạt đến chỗ thuần thục thì tuệ giác bừng sáng, cho nên chúng được gọi là “bảy yếu tố giác ngộ”.
Số 8
TÁM BƯỚC GIẢI THOÁT
(bát giải thoát)
Giải thoát là cởi bỏ được mọi sự trói buộc. Khi hành giả diệt trừ được mọi phiền não, không còn bị ràng buộc bởi những kiến chấp, chướng ngại, mê muội, thì được giải thoát. Thành quả giải thoát này gồm có tám bước, do công phu tu tập tám phép thiền định mà đạt được. Khi đã đạt được cả tám bước giải thoát ấy rồi thì hành giả liền vượt thoát ra ngoài ba cõi, chấm dứt sinh tử luân hồi.
1. Bước giải thoát đầu tiên:
Trong tự thân đã sẵn có tâm tham ái về chính sắc thân của mình, vì muốn diệt trừ tâm tham ái ấy, hành giả quán chiếu để thấy rõ tính chất bất tịnh, vô thường của thân thể mọi người. Do sự quán chiếu này mà tâm tham ái tự thân không còn nữa. Đó là bước giải thoát đầu tiên của hành giả. (Nội hữu sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát.)
2. Bước giải thoát thứ hai:
Tuy tâm tham ái tự thân đã dứt, nhưng tâm tham ái đối với cõi Dục vẫn còn nhiều, cho nên hành giả cần tiếp tục quán chiếu để thấy rõ hơn nữa tính chất vô thường, bất tịnh của vật chất (sắc thân mọi người) ở cõi Dục; từ đó diệt trừ được tâm tham ái đối với cõi Dục. Đó là bước giải thoát thứ hai của hành giả. (Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát.)
3. Bước giải thoát thứ ba:
Khi tâm tham ái đối với tự thân và vật chất cõi Dục đã không còn khởi động nữa thì cái đẹp hiển hiện. Tâm ý của hành giả bấy giờ trở nên trong sạch, sáng suốt, và tiếp tục quán chiếu để thấy rõ sự nhiệm mầu của thực tại vạn hữu; từ đó niềm an lạc phát sinh và tăng trưởng trong khắp tự thân. Hành giả hoàn toàn an trú trong cảnh giới an lạc ấy, và đạt được bước giải thoát thứ ba. (Tịnh giải thoát, thân tác chứng, cụ túc trú.)
4. Bước giải thoát thứ tư:
Với tâm ý trong sáng, không tham đắm, không vướng mắc, hành giả vượt ra khỏi phạm vi hạn hẹp của tự thân để quán chiếu tính chất vô biên của không gian và đồng nhất mình với không gian vô biên đó; đồng thời hành giả cũng thấy rõ tính cách đồng nhất giữa không gian vô biên và các vật thể. (Không vô biên xứ giải thoát.)
5. Bước giải thoát thứ năm:
Tiến thêm một bước, hành giả quán chiếu để thấy rõ rằng, cả không gian và thời gian đều dung nhiếp lẫn nhau, nương vào nhau mà tồn tại; cả hai đều không đứng độc lập với nhận thức, mà chính là những biểu tượng của nhận thức. Hành giả an trú trong chánh niệm “tâm thức bao hàm cả không thời gian”, tức là an trú trong bước giải thoát thứ năm. (Thức vô biên xứ giải thoát.)
6. Bước giải thoát thứ sáu:
Hằng ngày chúng ta nhìn thực tại bằng các khuôn khổ của tư tưởng – tức là những ý niệm đối đãi về trong - ngoài, có - không, sinh - diệt, cao - thấp, trên - dưới, lớn - nhỏ, v.v... Nhưng tự thân thực tại thì không bao giờ mang lấy những khuôn khổ như vậy. Cho nên, khi tu tập phép thiền định thứ sáu này, hành giả phải quán chiếu để thấy rõ tính chất vô tướng của thực tại vạn hữu. Với phép thiền quán này, hành giả vượt thoát được thế giới khái niệm, vất bỏ được các khuôn khổ của tư tưởng, và thực tại hiển lộ trong thật tướng như như bình đẳng của nó. Đó là bước giải thoát thứ sáu mà hành giả đạt được. (Vô sở hữu xứ giải thoát.)
7. Bước giải thoát thứ bảy:
Khi hành giả bước sang giai đoạn vất bỏ được sự phân biệt về chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức – tức là không còn thấy có một bên là chủ thể quán chiếu và một bên là đối tượng quán chiếu, thì đó là lúc hành giả đang ở trong trạng thái thiền định gọi là “không phải tư tưởng cũng không phải là không phải tư tưởng”; tức là bước giải thoát thứ bảy. (Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.)
8. Bước giải thoát thứ tám:
Đây là bước giải thoát sau cùng, là đỉnh cao nhất của tuệ giác mà hành giả đạt được. Lúc này hành giả thật sự thấu suốt chân tướng của thực tại, giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khái niệm (cảm thọ và tư tưởng), phá tan được lưới sinh tử, không rơi lọt lại vào vòng luân hồi. (Diệt tận giải thoát, hay Diệt thọ tưởng giải thoát.)
............................................
Số 8
TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ của BẬC ĐẠI NHÂN
(bát đại nhân giác)
Do dùng trí tuệ quán chiếu mà thấy rõ được thật tướng của vạn hữu thì gọi là giác ngộ. Chữ “đại nhân” ở đây được dùng để chỉ cho các bậc đã giác ngộ. Các bậc đại nhân sở dĩ đã giác ngộ là vì quí ngài đã dùng trí tuệ quán chiếu và đã thấy rõ chân tướng của thực tại vạn hữu qua tám đề tài thiền quán sau đây:
1. Cuộc đời, nói chung là những yếu tố cấu tạo nên con người và vạn vật như bốn đại và năm uẩn đều là trống rỗng (không); là sinh diệt và thay đổi không ngừng (vô thường); là đầy dẫy khổ đau (khổ); là hư ngụy và không có thực thể (vô ngã); còn nói riêng về “ta” thì tâm ta là nguồn cội phát sinh bao điều xấu, và thân ta thì chỉ là nơi tích tụ của vô vàn tội lỗi.
2. Càng lắm tham muốn (đa dục) thì càng nhiều khổ đau (đa khổ). Càng ít tham muốn (thiểu dục) thì thân tâm càng được thư thái (tự tại).
3. Càng chạy theo danh lợi thì càng gây nhiều phiền não tội lỗi. Nếu biết sống vừa ý với điều kiện
vật chất khiêm nhượng (tri túc) thì tâm ý lúc nào cũng được an vui, để chỉ đeo đuổi một sự nghiệp duy nhất của mình là thành tựu trí tuệ giác ngộ.
4. Tính lười biếng luôn luôn đưa ta đến con đường đọa lạc. Vì vậy, ta phải luôn luôn siêng năng tu tập để diệt trừ phiền não và vượt khỏi vòng trói buộc của sinh tử luân hồi.
5. Chính vì vô minh mà ta cũng như mọi người cứ bị giam hãm trong ngục tù sinh tử. Vì vậy, ta luôn luôn phải cố gắng học rộng, biết nhiều, phát triển trí tuệ, đạt được biện tài để giáo hóa cho mọi người, tất cả đều được niềm vui lớn.
6. Sự nghèo khổ dễ khiến cho người ta gây nên nhiều tội lỗi xấu xa; cho nên người tu hạnh Bồ-tát phải thường xuyên thực hành hạnh bố thí, không phân biệt kẻ ghét người thương, bỏ qua những điều ác người ta đã làm đối với mình, và biết xót thương những người đã làm ác.
7. Năm thứ dục vọng (ngũ dục) đầy sức quyến rũ, làm cho con người gây nên tội lỗi và chịu nhiều hoạn nạn; cho nên người tu học sống trong thế tục mà không nhiễm những thói hư tật xấu của thế tục, lúc nào cũng sống đời đạm bạc, giữ phạm hạnh thanh cao, đem lòng từ bi để đối xử với tất cả mọi người.
8. Mọi loài chúng sinh đang chịu bao thống khổ trong biển lửa sinh tử, cho nên hạnh nguyện của người tu học là phát tâm đại thừa, nguyện cứu tế cho mọi người, mọi loài, khiến cho tất cả đều đạt được niềm vui giải thoát.
Tám đề tài thiền quán trên đây được rút ra từ kinh Bát Đại Nhân Giác. Vậy, để hiểu được một cách tường tận và sâu sắc hơn, xin đọc Kinh Bát Đại Nhân Giác (Nhất Hạnh dịch và chú giải, Lá Bối xuất bản).
TÁM KHOA GIÁO
(bát giáo)
Tất cả giáo pháp do đức Phật giảng dạy trong suốt cuộc đời hoằng hóa của Ngài, được đại sư Trí Giả của tông Thiên thai (Trung-hoa) phân chia thành tám loại khoa giáo, căn cứ trên hai mặt:
A. Về mặt nội dung, có bốn loại:
1. Tạng giáo: những giáo pháp có nội dung nông cạn, dễ hiểu, chủ yếu là dành cho những người căn cơ thấp kém.
2. Thông giáo: những giáo pháp có nội dung cao hơn, phù hợp cho cả những người có căn cơ thấp lẫn căn cơ cao, trong đó, những giáo nghĩa về “không” và “vô sinh” được đặc biệt nhấn mạnh.
3. Biệt giáo: những giáo pháp có nội dung sâu xa, đặc biệt để giáo hóa chúng Bồ-tát đại thừa.
4. Viên giáo: giáo pháp thâm diệu, cao tột mà chỉ có các vị Đại Bồ-tát với trí tuệ siêu việt mới lĩnh hội và chứng ngộ được.
B. Về mặt hình thức, có bốn loại:
1. Đốn giáo: Đối với thính chúng có căn trí sáng suốt, linh lợi, đức Phật dùng các pháp môn thật sâu xa, mầu nhiệm để đưa họ đến quả vị giác ngộ một cách mau chóng. Các loại kinh điển đại thừa có nội dung cao siêu như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v... thuộc về loại này.
2. Tiệm giáo: Đối với thính chúng có căn tính thấp kém hơn, đức Phật dùng các pháp môn tiệm tiến, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao để hướng dẫn họ từng bước một, cho đến khi đạt được quả vị giác ngộ. Các kinh A Hàm và một số kinh điển đại thừa khác thuộc về loại này.
3. Bí mật giáo: Đối với hạng người có căn trí tinh thuần đặc biệt, đức Phật chỉ dùng sức “không thể nghĩ bàn” (bất khả tư nghị) ở thân khẩu ý của mình mà giáo hóa một cách bí mật, chỉ có Ngài và các đương sự liên hệ mới hiểu được nhau mà thôi. Các thần chú ở rải rác trong các kinh điển đại thừa là một ví dụ.
4. Bất định giáo: Cũng có những giáo pháp mà khi đức Phật nói ra, một số người thì lĩnh hội được và rất lấy làm lợi lạc, nhưng đồng thời, một số người khác thì lại không thể lĩnh hội được và chẳng thấy có ích lợi gì cả.
TÁM NGỌN GIÓ
(bát phong)
Gió thổi làm lay động muôn vật. Trong đời sống thường tình có tám thứ luôn luôn làm lay động lòng người, khiến sinh ra lắm điều bất an, vọng tưởng; đạo Phật gọi tám thứ đó là “tám ngọn gió”:
1. Lợi: điều gì làm cho thỏa mãn ý muốn của mình.
2. Suy: điều gì không làm thỏa mãn ý muốn của mình.
3. Hủy: lời chê bai sau lưng mình.
4. Dự: lời khen ngợi sau lưng mình.
5. Xưng: lời khen ngợi trước mặt mình.
6. Cơ: lời chê bai trước mặt mình.
7. Khổ: đau thương, buồn phiền.
8. Lạc: vui mừng, sung sướng.
TÁM NGUYÊN TẮC HÀNH ĐỘNG CHÂN CHÍNH
(bát chánh đạo - bát thánh đạo)
Tám nguyên tắc hành động chân chính là một trong những đạo lí căn bản nhất của đạo Phật. Về mặt nhân bản, đó là nền đạo đức học thực nghiệm của Phật giáo dùng để rèn luyện con người có được một nhân cách đẹp đẽ, cao thượng, trọn vẹn; về mặt tôn giáo thì đó là những con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau, đạt được an lạc, giải thoát khỏi ba cõi, giác ngộ viên mãn, và chứng nhập niết bàn. Tám nguyên tắc này thuộc về sự thật thứ tư (đạo đế) của giáo lí nền tảng “Bốn Sự Thật” (đã được trình bày ở trước). Giáo lí Bát Chánh Đạo này quan trọng đến nỗi, nó đã được Phật dạy ngay trong bài pháp đầu tiên (tại vườn Lộc-uyển, cho năm vị sa môn nhóm Kiều Trần Như) sau ngày thành đạo, rồi dạy đi dạy lại trong suốt 45 năm hóa đạo, và trong những giờ phút cuối đời trước khi nhập diệt (tại rừng Câu-thi-na), Ngài vẫn còn dạy lần chót cho vị đệ tử xuất gia sau cùng là Tu Bạt Đà La.
1. Thấy biết chân chính (chánh kiến).Thấy biết chân chính là thấy biết vạn pháp (trong đó gồm cả bản thân mình) đúng với tự tính chân thật của chúng. Một cách cụ thể, khi ta nhìn cuộc sống đúng theo cái nhìn của đạo lí “Bốn Sự Thật” (tứ đế), đó là ta có “chánh kiến”; khi ta nhìn vạn sự vạn vật và ta thấy rõ những tính cách vô thường, vô ngã, duyên sinh của chúng, đó là “chánh kiến”. Vậy, chánh kiến là thấy biết đúng với SỰ THẬT, nghĩa là cái thấy không còn bị che phủ bởi vô minh, thành kiến, cố chấp, dục vọng; hay cũng có thể nói, chánh kiến chính là tuệ giác của bậc giác ngộ.
2. Suy nghĩ chân chính (chánh tư duy).Suy nghĩ chân chính là sự suy nghĩ đặt trên căn bản của sự thật, suy nghĩ đúng với bản tính chân thật của vạn pháp. Ta vận dụng tâm trí để suy nghiệm về vạn pháp đúng với bản chất vô thường, vô ngã, duyên sinh của chúng, đó là “chánh tư duy”. Sự suy tư chân chính sẽ đem lại cho ta những tư tưởng chân chính. Nếu những tư tưởng xấu xa, sai lầm đã làm cho ta trở nên con người thấp hèn, thô lỗ, thì ngược lại, những tư tưởng chân chính, đúng đắn sẽ nâng cao phẩm cách của ta trở thành người trong sạch, cao thượng. Người có tư duy chân chính sẽ thấy rằng vô minh là đầu mối của mọi lỗi lầm và gây ra muôn vàn đau khổ, do đó, họ diệt trừ được tâm tham dục, luyến ái, ích kỉ, sân hận, oán thù, hung bạo, ganh ghét, và thay vào đó, họ sẽ phát triển những tư tưởng vị tha, thiện chí, ôn hòa, thương yêu, giúp đỡ...
3. Nói năng chân chính (chánh ngữ).Nói năng chân chính là nói năng đúng với sự thật. Không nói dối chỉ là một khía cạnh của “chánh ngữ”, chứ chưa phải là “chánh ngữ”. Nhiều khi chúng ta không nói dối nhưng vẫn sai với sự thật: chúng ta thấy biết làm sao thì nói làm vậy, nhưng vì cái thấy biết ấy đã bị sai lạc, lầm lẫn, cho nên chúng ta đã nói không đúng với sự thật. Vậy, lời nói chân chính là lời nói không dối trá, không độc ác, không đâm thọc, không thêu dệt và siểm nịnh. Đó là những lời nói không xuất phát từ lòng tham dục, ích kỉ, hận thù, giận dữ, ngu dốt, ganh tị. Nói năng chân chính là không nói những lời nhằm lừa gạt, nịnh hót, phỉ báng, chửi mắng, sỉ nhục, vu oan, chia rẽ, nghĩa là tất cả những lời nói với dã tâm hại người. Lời nói chân chính là những lời nói từ ái, hòa nhã, dịu dàng, đoàn kết, xây dựng, đem lại an vui, lợi ích và tin tưởng cho mọi người. Chánh ngữ còn là những lời nói thận trọng, khéo léo nhằm hướng dẫn người đi vào nẻo thiện, giúp cho người khai mở trí tuệ, có được cái thấy sáng suốt, cái nhìn chính xác, nếp suy tưởng đúng đắn, phù hợp với thực tại. Vì vậy, nếu giảng pháp mà làm cho người ta hiểu sai Phật pháp, cố chấp lí thuyết, hoặc càng nghe càng thấy tối tăm, nghi ngờ, thì đó là tà ngữ, không phải là chánh ngữ.
4. Hành động chân chính (chánh nghiệp).Có ba loại hành động (tam nghiệp): hành động của ý (ý nghiệp), hành động của miệng (khẩu nghiệp), và hành động của thân (thân nghiệp). Trong pháp số “Bát Chánh Đạo” này, yếu tố chánh nghiệp ở đây chỉ nhằm nói đến thân nghiệp mà thôi, còn ý nghiệp và khẩu nghiệp thì đã được bao hàm trong các yếu tố khác. Tất cả mọi hành động hằng ngày của thân thể đều là thân nghiệp – ngay cả sự ăn uống, tuy là hành động của miệng, nhưng vẫn thuộc thân nghiệp, còn khẩu nghiệp chỉ là sự nói năng mà thôi; vì vậy, khẩu nghiệp cũng được gọi là “ngữ nghiệp”. Hành động chân chính là những hành động không phát xuất từ tham lam, vị kỉ, sân hận, oán thù, ngu si, ganh tị..., bởi vậy, chúng không gây ra đau khổ cho người khác, không phá hoại hạnh phúc của mọi người, không tàn hại người, vật và thiên nhiên. Hành động chân chính là những hành động được soi sáng bởi chánh kiến, chánh tư duy..., được thúc đẩy bởi tình thương, sự hiểu biết, lòng cởi mở, tính vị tha, và chắc chắn sẽ đem lại an vui, hạnh phúc, thanh bình cho xã hội, đem lại tươi mát cho mọi loài và thiên nhiên. Đi đứng nằm ngồi theo chánh pháp, ăn uống ngủ nghỉ theo chánh pháp, làm việc theo chánh pháp, tu học theo chánh pháp..., đều là những hành động chân chính.
5. Mưu sinh chân chính (chánh mạng).Mọi người đều phải làm việc để nuôi sống cho chính mình và cho thân nhân mình, đó là điều hiển nhiên. Nhưng trong những công việc mưu sinh cũng có những việc tốt và những việc xấu. Người tu học không nên chọn những công việc có thể gây khổ đau cho người khác, làm tăng thêm sự bất công xã hội, hoặc tàn hại thiên nhiên và tiêu diệt sự sống của mọi loài. Người tu học khi có ý thức mưu sinh chân chính thì sẽ tìm những nghề nghiệp lương thiện, trong sạch, tâm niệm không gian tham, không lươn lẹo, không lường gạt, không bóc lột sức người, không lạm dụng sức vật, không làm giàu trên mồ hôi nước mắt người khác. Những công việc như chế tạo và buôn bán các loại vũ khí, các loại hóa chất, độc dược để tàn phá đời sống con người, loài vật và thiên nhiên; môi giới hoặc buôn bán người (con gái, trẻ em) cho những tổ chức bất lương, vô nhân đạo; nuôi và buôn bán súc vật cho người ta ăn thịt; săn thú hoặc lưới cá bán cho người tiêu thụ; làm thịt súc vật trong lò sát sinh; chế tạo và buôn bán rượu cùng các chất ma túy v.v..., đều là những phương tiện mưu sinh bất chính, có tính chất phá hoại và gây đau khổ, người tu học nên tránh xa.
6. Siêng năng chân chính (chánh tinh tấn).“Siêng năng” ở đây không phải là dồn hết mọi nỗ lực để làm một công việc gì đó cho xong, rồi thôi; nhưng đó là sự cố gắng liên tục, bền bỉ, dẻo dai trong sự tu tập cho đến khi đạt được mục tiêu cuối cùng là đạo quả giải thoát. Nói rõ hơn, “chánh tinh tấn” là sự siêng năng liên tục trong việc kiểm soát thân miệng ý, làm cho tiêu trừ mọi tật xấu và phát triển các hạnh lành. Có thể nói, “siêng năng chân chính” ở đây không có gì khác hơn là “bốn sự cần mẫn” (tứ chánh cần) đã trình bày ở trước. Nếu sự siêng năng của mình là để nhằm phục vụ cho những ý đồ đen tối, làm tăng trưởng dục vọng, gây đau khổ cho mọi người, thì đó là “tà tinh tấn”; người tu học không nên “tinh tấn” theo cách đó.
7. Nhớ nghĩ chân chính (chánh niệm).Khi ta nhớ đến điều gì tức là ta đem điều ấy đặt trên ý thức ta ở giây phút hiện tại. Vậy “niệm” hay “quán niệm” là sống với giờ phút hiện tại. Khi mình đang làm việc gì thì mình để hết tâm ý lên trên việc đó, khi nghe điều gì thì để hết tâm ý vào điều đang nghe, đang nói chuyện gì thì để hết tâm ý vào chuyện đang nói, đang suy nghĩ vấn đề gì thì để hết tâm ý vào vấn đề đang suy nghĩ, đó là sống có chánh niệm. Một cách cụ thể, nếu thực tập pháp môn “bốn lĩnh vực quán niệm” như đã đề cập ở trước, tức là thực tập chánh niệm. Có chánh niệm thì cũng có thất niệm. Khi ta nói mà không biết đang nói gì, khi làm mà không biết đang làm gì, khi suy nghĩ mà không biết đang suy nghĩ gì, tức là ta không sống trong chánh niệm mà là đang sống trong lãng quên, trong thất niệm; mà lãng quên, thất niệm cũng đồng nghĩa với mê muội, vô minh, vô ý thức. Người tu học nên cố gắng, đừng để cho nếp sống thất niệm ấy xâm chiếm đời sống của mình. Mặt khác, chánh niệm cũng có nghĩa là những điều nhớ nghĩ chính đáng, và trái lại thì gọi là tà niệm. Nếu những điều ta nhớ nghĩ đến mà làm cho thân tâm ta an lạc, khuyến khích và giúp đỡ ta tiến bộ trên đường tu tập đạo giải thoát, thì đó là những nhớ nghĩ chính đáng (chánh niệm); ngược lại, những điều hễ nhớ nghĩ đến là ta thấy bất an, buồn phiền, oán hận, chán nản, hoặc ham muốn, thèm khát, say mê điên cuồng, mê muội tâm trí..., thì đó là những nhớ nghĩ bất chánh, tội lỗi (tà niệm). Nếu ta nghĩ rằng có đức Phật A Di Đà luôn luôn sẵn sàng đợi ta nhớ nghĩ đến Ngài là Ngài tiếp dẫn ta về sống ở thế giới Cực-lạc hoàn toàn an vui, sung sướng, muốn ăn tức khắc có món cao lương mĩ vị, muốn mặc tức khắc có áo quần sang trọng, trang sức lộng lẫy, khỏi phải lo toan gì..., rồi ta không thèm tu tập, không bỏ ác làm lành gì cả, cứ ngồi “niệm Phật” để chờ vãng sanh, thì đó cũng là tà niệm.
8. Thiền định chân chính (chánh định).Hành “thiền” để đạt được tâm “định” thì gọi là “thiền định”. “Định” là giữ tâm ý an trụ vào một điểm hay một đề mục quán chiếu, và “thiền” chính là phương pháp thực tập để giữ cho tâm ý được an trụ. Khi tâm ý đã được tập trung thì trí tuệ phát sinh. Do trí tuệ đó mà hành giả thấy rõ được chân tướng của thực tại vạn hữu (chánh kiến), và giải thoát được những sợi dây ràng buộc của vô minh, của thành kiến cố chấp, của tham dục ích kỉ, của ngã chấp và pháp chấp. Đó là chánh định. Sở dĩ “chánh định” đã được kể là một yếu tố quan trọng trong “Bát Chánh Đạo” là vì thời Phật tại thế đã có rất nhiều thứ tà định của ngoại đạo. Ngoại đạo tu tập những loại định này cốt để trốn tránh đời sống khổ đau. Có những vị như A La Lam hay Uất Đầu Lam Phất chẳng hạn, có định lực lớn, chứng đắc các cõi thiền rất cao, nhưng cũng chỉ là để trốn tránh cái thực tế khổ đau của kiếp người. Chính đức Phật trước khi thành đạo cũng đã từng theo học với quí vị ấy về những loại định này, và cũng đã chứng đắc như họ, nhưng Ngài thấy điều đó vẫn là vô ích, chưa phải là mục đích tìm cầu của Ngài. Mục đích của Ngài là giải thoát khổ đau, giải thoát sinh tử. Giải thoát khổ đau và trốn tránh khổ đau là hai hành động hoàn toàn khác nhau. Bởi vậy, tà định là để trốn tránh, còn chánh định mới là giải thoát.Tám yếu tố trên đây, nếu phân tích theo “Ba Môn Học Giải Thoát” (tam vô lậu học), thì chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng thuộc về GIỚI; chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định thuộc về ĐỊNH; chánh tư duy và chánh kiến thuộc về TUỆ. Nếu phân tích theo “Ba Nghiệp” thì chánh nghiệp và chánh mạng thuộc về THÂN NGHIỆP; chánh ngữ thuộc về KHẨU NGHIỆP; chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định thuộc về Ý NGHIỆP. Bất cứ một trong tám yếu tố nào trên đây cũng bao gồm hai phần NHÂN và QUẢ của chính nó – nghĩa là, tự thân nó làm nhân cho nó, và cũng tự thân nó là quả của nó. Muốn đạt được chánh kiến (quả) thì ta phải thực tập chánh kiến (nhân); hay nói cách khác, nếu ta tu tập chánh kiến (nhân) thì nhất định ta sẽ có được chánh kiến (quả). Cả bảy yếu tố kia cũng vậy. Lại nữa, trong tám yếu tố trên, bất cứ một yếu tố nào cũng có thể là NHÂN, và cũng đồng thời là QUẢ của bảy yếu tố kia. Do ta có chánh kiến cho nên ta sẽ đạt được chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định v.v...; hay có thể nói ngược lại, sở dĩ ta có chánh kiến là vì ta đã đạt được chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định v.v... Bởi vậy, có thể nói, bất cứ một yếu tố nào trên đây cũng bao gồm cả bảy yếu tố kia của bát chánh đạo. Tất cả tám yếu tố đó đều tương quan tương liên và trợ giúp, nâng đỡ lẫn nhau để đưa hành giả đến thành quả giác ngộ.
TÁM THỨC
(bát thức)
Thức – hay tác dụng nhận thức, tức là cái BIẾT, là những dòng tiếp nối của cảm giác hay tri giác phân biệt. Khi các giác quan (CĂN) tiếp xúc với đối tượng của chúng (CẢNH hay TRẦN) thì liền phát sinh cái biết (THỨC). Vậy thức được phát hiện từ căn cứ của nó là căn và trần, và nương tựa trên căn cứ đó mà tồn tại. Theo Duy Thức Học, thức có tám tác dụng – tức là có tám thức:
1. Nhãn thức: cái thấy, tức là cái biết sinh ra khi mắt (nhãn căn) tiếp xúc với cảnh vật (sắc trần).
2. Nhĩ thức: cái nghe, tức là cái biết sinh ra khi tai (nhĩ căn) tiếp xúc với âm thanh (thanh trần).
3. Tị thức: cái ngửi, tức là cái biết sinh ra khi mũi (tị căn) tiếp xúc với mùi (hương trần).
4. Thiệt thức: cái nếm, tức là cái biết sinh ra khi lưỡi (thiệt căn) tiếp xúc với các thức ăn uống (vị trần).
5. Thân thức: cái cảm xúc, tức là cái biết sinh ra khi thân thể (thân căn) đụng chạm mọi vật (xúc trần).(1)
Tác dụng nhận thức của năm thức trên đây hoàn toàn chỉ có tính cách thuần túy cảm giác, không có tính cách phán đoán, ước lượng và suy luận, cho nên được gọi là “năm thức cảm giác” – các nhà duy thức học thường gọi là “năm thức trước”. Và vì vậy, hình thái nhận thức của chúng là hiện lượng(2); đối tượng nhận thức của chúng là hữu chất tánh cảnh(3); và tính chất nhận thức của chúng bao gồm cả thiện, ác, và vô kí(4).
Để có được tác dụng nhận thức, năm thức trên đây luôn luôn liên hiệp với 34 hiện tượng tâm lí (tức là những thuộc tính của thức mà Duy Thức Học gọi là những “tâm sở”), gồm có 5 tâm sở biến hành (xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư); 5 tâm sở biệt cảnh (dục, thắng giải, niệm, định, tuệ); 11 tâm sở thiện (tín, tàm, quí, vô tham, vô sân, vô si, cần, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại); và 13 tâm sở bất thiện (tham, sân, si, vô tàm, vô quí, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri)(5).
Vì được phát sinh từ căn và cảnh, năm thức này luôn luôn liên hệ mật thiết với hai lĩnh vực sinh và vật lí, và hoạt động một cách gián đoạn, không liên tục – như trong khi ngủ chẳng hạn, chúng ngưng hoạt động; hoặc nếu có hoạt động thì cũng ở một cường độ thật yếu ớt, chỉ đủ để tạo nên những cảm giác vô thức nơi thân thể.
Khi đã giác ngộ thì năm thức cảm giác này được chuyển thành thành sở tác trí(6).
6. Ý thức: cái biết sinh ra khi ý căn (mạt-na thức)(7) tiếp xúc với pháp trần(7).
Câu định nghĩa trên có vẻ thật giản dị, thực ra, phạm vi hoạt dụng của ý thức rộng rãi vô cùng. Nó có quyền năng rất lớn, có thể trấn ngự các thức khác, hoạt động tự do tự tại, có thể tạo lập và thay đổi bản chất của đời sống cá nhân lẫn tập thể. Chính nó xoay con người lưu chuyển trong vòng sinh tử luân hồi, hay đưa con người thẳng đến bến bờ giải thoát; bởi vì chính nó là ý nghiệp, là thức đóng vai trò tạo nghiệp, là động cơ chủ yếu đưa tới các hành động thuộc về thân thể và ngôn ngữ.
Ý thức được nhận diện dưới hai hình thức: liên hiệp với năm thức trước (ngũ câu) và đơn độc (độc đầu).
a) Tác dụng liên hiệp với năm thức cảm giác (ngũ câu ý thức). Cái biết phát sinh từ năm thức trước mới chỉ thuần là cảm giác; khi có thêm tác dụng của ý thức thì cái biết cảm giác sẽ trở thành tri giác – là cái biết rõ ràng, sáng tỏ.
Khi mắt nhìn cái hoa, nếu không có ý thức thì cái thấy của nhãn thức chỉ là cái thấy lờ mờ, không rõ ràng; thậm chí, nhiều khi thấy mà hầu như không thấy. Nhưng nếu có mặt của ý thức thì cái hoa sẽ hiển hiện một cách rõ ràng, và cái biết sẽ trở nên sáng tỏ, tỉ mỉ hơn: từ hình dáng, đường nét, màu sắc, cho đến một con ong đang sà xuống hút mật, một ngọn gió thổi qua làm lay động cành lá v.v..., tất cả các chi tiết có liên hệ đến cái hoa lúc ấy đều được nhận biết một cách cặn kẽ. Khi liên hiệp với năm thức trước như vậy, ý thức được gọi là ngũ câu ý thức, và tác dụng của nó là tri giác. Ở đây chúng ta cần để ý, cái biết “tri giác” về cái hoa vừa nêu ra, là cái biết thật thuần túy – nghĩa là cái hoa làm sao thì biết làm vậy, mọi chi tiết liên hệ đến cái hoa thế nào thì biết thế đó, hoàn toàn không có ý niệm nào khác xen vào; ý thức ngũ câu trong trường hợp này chính là tri giác thuần túy, và vì vậy, hình thái nhận thức của nó là hiện lượng(2), đối tượng nhận thức của nó là hữu chất tánh cảnh(3).
Nhưng trong thực tế của đời sống hằng ngày, chúng ta rất ít khi thấy bằng tri giác thuần túy như vậy; nếu có thì cũng chỉ trong vài giây phút ngắn ngủi, còn hầu hết là thấy bằng suy tưởng, đắn đo, so sánh, ước lượng, phán đoán v.v... Do đó, trong chúng ta luôn luôn đầy ắp những bóng dáng, hình ảnh của thực tại, mà ít khi thấy được cái mặt thật của thực tại. Bởi vậy, hình thái nhận thức của ý thức ngũ câu hầu hết là tỉ lượng(2), và đối tượng nhận thức của nó là đới chất cảnh(3).
Nói chung thì trong đời sống hằng ngày, mọi cái biết đều được phát hiện từ các giác quan, và đều được ý thức làm cho sáng tỏ. Cho nên, Duy Thức Tam Thập Tụng đã gọi cả sáu thức này là “liễu biệt cảnh thức” (cái biết phân biệt rõ ràng về mọi vật).
b) Tác dụng đơn độc (độc đầu ý thức). Trong trường hợp này, ý thức chỉ hoạt động độc lập, không liên hiệp với năm thức trước. Trong các hoạt động như suy tư, hồi tưởng, tưởng tượng, lí luận, so đo, phán đoán... nó được gọi là ý thức tán vị (tán vị ý thức – nghĩa là ý thức trong trạng thái phân tán), và đó là các hoạt động phổ thông, thường xuyên nhất của ý thức. Mộng mị trong giấc ngủ cũng là một loại hoạt động của ý thức độc đầu, và trong trường hợp này nó được gọi là ý thức trong mộng (mộng trung ý thức). Ở trường hợp người bị điên loạn thì nó được gọi là ý thức trong cơn điên loạn (loạn trung ý thức). Và khi ở trong trạng thái thiền định thì nó được gọi là ý thức trong định (định trung ý thức). Tán vị, độc đầu, mộng, loạn, định, đó là năm trạng thái của ý thức. Theo đó thì hình thái nhận thức của ý thức độc đầu có khi là hiện lượng(2) (như ý thức trong định), có khi là phi lượng(2) (đó là ý thức trong mộng và trong cơn điên loạn), nhưng hầu hết là tỉ lượng(2) (trường hợp ý thức tán vị); còn đối tượng nhận thức của nó thì hoàn toàn là độc ảnh cảnh(3).
Một cách tổng quát, hình thái nhận thức của ý thức (cũng gọi là thức thứ sáu) bao gồm cả ba lượng(2); đối tượng nhận thức của nó bao gồm cả ba cảnh(3) – tức là “pháp trần”; và tính chất nhận thức của nó thì có đủ cả ba tính(4) (thiện, ác và vô kí). Để có được tác dụng nhận thức, ý thức luôn luôn liên hệ với tất cả 51 tâm sở(5).
Cũng như năm thức trước, ý thức liên hệ mật thiết với cả hai lĩnh vực sinh lí (căn) và vật lí (cảnh). Tất cả sáu thức này đều được phát sinh theo luật nhân duyên (có điều kiện: khi căn tiếp xúc với cảnh) như bất cứ một hiện tượng sinh vật lí nào khác, cho nên cũng có tính cách chuyển biến, không đồng nhất, và hoạt động có lúc bị gián đoạn, không liên tục. Khi đã giác ngộ thì ý thức được chuyển thành diệu quan sát trí(6).
Duy Thức Học cũng có khi gọi chung thức thứ sáu và năm thức cảm giác là “sáu thức trước”.
7. Mạt-na thức (tức là ý, hay ý căn, cũng gọi là “thức thứ bảy”): cái biết chấp ngã, cái biết phân biệt ngã với phi ngã. Mạt-na vừa là thức mà cũng vừa là căn (làm chỗ nương tựa cho ý thức). Nó được phát sinh từ thức thứ tám là a-lại-da, nương tựa trên a-lại-da để tồn tại, rồi lại lấy a-lại-da làm đối tượng nhận thức. Vì vậy, thức a-lại-da vừa là căn mà cũng vừa là đối tượng của thức mạt-na. Khi lấy a-lại-da làm đối tượng nhận thức, mạt- na đã bám sát lấy a-lại-da và cho đó là cái ngã chân thật; do đó, tính chất của mạt-na là chấp ngã – Duy Thức Học gọi là “tư lương”, tức là suy tư, đo lường, tính toán, ôm ghì, bám chặt. Tính chất chấp ngã này đã từng tích tụ rất sâu dầy từ vô thỉ, và đã cùng sinh ra một lần với thân mạng, cho nên ta cũng có thể gọi nó là bản năng chấp ngã. Thật ra, không hề có một cái gọi là “ngã”, chẳng qua chỉ vì thức mạt-na đã từng bị vô minh che lấp, nên đã có nhận thức sai lầm (tà kiến) về ngã; và, theo Duy Thức Học, đó là đầu dây mối nhợ cho tất cả mọi sai lầm về nhận thức. Với nhận thức sai lầm về ngã này, thức mạt-na luôn luôn có ảo tưởng rằng, thân mạng là thật ngã, là chủ thể, và tất cả những gì ở bên ngoài thân mạng là thật pháp, là đối tượng của ngã; và rằng, ngã và pháp (hay chủ thể và đối tượng) là hai hiện tượng độc lập với nhau. Vì vậy, mạt-na tuy là một thứ trực giác – trực giác chấp ngã – nhưng chỉ là một thứ công dụng tợ hiện lượng(2), cho nên hình thái nhận thức của nó luôn luôn là phi lượng(2). Lại nữa, cũng vì tính chất chấp ngã mà mạt-na không bao giờ tiếp xúc được với thế giới tánh cảnh(3), cho nên đối tượng nhận thức của nó chỉ hoàn toàn là đới chất cảnh(3). Về tính của mạt-na, Duy Thức Học cho rằng, nó không phải là thiện, cũng không phải là ác, mà là vô kí(4); nhưng vì bị vô minh che lấp (hữu phú), cho nên phải nói đầy đủ tính chất của nó là hữu phú vô kí.
Trong tác dụng nhận thức, mạt-na liên hệ với 18 tâm sở, gồm có: 5 tâm sở biến hành, tâm sở “tuệ” của 5 tâm sở biệt cảnh, và 12 tâm sở bất thiện (tham, si, mạn, tà kiến, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri)(5).
Bốn tâm sở bất thiện tham, si, mạn và tà kiến, theo thứ tự tức là ngã ái, ngã si, ngã mạn và ngã kiến, là bốn loại phiền não gốc rễ(8) tác động thường xuyên trên thức mạt-na. Chúng được coi là chính bản thân của mạt-na, và đó là tất cả những gì mà ta gọi là vọng nghiệp, là nguyên nhân chính của sinh tử luân hồi.
Ý thức, tuy phạm vi hoạt động vô cùng rộng rãi, nhưng vì nó lấy thức mạt-na làm “căn”, nên hoàn toàn tùy thuộc vào bản chất của mạt-na trong mọi tác dụng nhận thức. Nói cách khác, thức mạt-na là nền tảng cho mọi hành động (dù mang tính cách ô nhiễm hay thanh tịnh) của ý thức – và của cả năm thức trước nữa. Như vậy, ý (thức mạt-na) là điểm trung tâm, là cái động lực làm phát hiện nhận thức; và do ảnh hưởng của ý mà ý thức cũng mang lấy tà kiến phân biệt chấp ngã, cũng thấy biết, suy đoán, phán xét, suy nghĩ sai lầm, và đã dựng nên không biết bao nhiêu cái khung (phạm trù) tư tưởng – như ta, người, có, không, cao, thấp, trên, dưới, tốt, xấu, trong, ngoài, sinh, diệt v.v..., để từ đó tạo nên biết bao nghiệp nhân xấu ác, bao hành động vô minh, tà dục, và cứ thế, những nghiệp nhân này cứ tiếp tục nuôi dưỡng, bồi đắp cho bản chất sai lầm của mạt-na trong suốt quá trình sinh mạng. Dù hoạt động của sáu thức trước có lúc bị gián đoạn, nhưng bản năng chấp ngã của thức mạt-na thì luôn luôn liên tục. Cái mà người ta gọi là “bản năng tự tồn”, đó chính là thức mạt-na. Sự tồn tục của nó không những chỉ có trong một quá trình sinh mạng, mà nó đã hiện hữu từ trước khi cá nhân được thác sinh (từ vô thỉ) và cả sau khi cá nhân đã chết.
Nếu ý thức đã có khả năng tạo ra nghiệp nhân xấu để tiếp tục bồi đắp cho bản chất sai lầm của thức mạt-na, thì chính ý thức cũng có khả năng làm cho mạt-na trở nên trong sạch, thánh thiện. Ý thức có thể quán chiếu tính KHÔNG của ngã và pháp để ngăn chận bốn loại phiền não gốc rễ (si, kiến, mạn, ái), không cho hiện hành và tác động trên mạt-na, làm cho thức này mất dần sức mạnh chấp ngã – tức là làm trong sạch dần bản chất ô nhiễm. Và nếu công phu cứ được tiếp tục mãi thì đến một lúc nào đó, mạt-na sẽ hoàn toàn được trong sạch hóa, không còn bám lấy thức a-lại-da làm đối tượng chấp ngã nữa, rồi cái ảo tưởng về “thật pháp ở bên ngoài ngã” cũng tiêu mất, lúc đó, từ cái bản chất là một thức, mạt-na sẽ chuyển thành một loại tuệ giác gọi là bình đẳng tánh trí.(6)
8. A-lại-da thức: cái biết chứa đựng, gìn giữ và biến hiện – cũng gọi là “thức thứ tám”.
Thức a-lại-da là nền tảng của mọi tác dụng nhận thức và mọi hiện tượng tâm sinh vật lí. Nó không phải là cái mà người ta thường gọi là “linh hồn” (được chứa đựng trong một thể xác). Nó không có hình thái, không có dung tích, và không có một nơi nhất định nào dung chứa nó. Hoạt dụng của nó rất thâm mật, trí óc phàm tục không thể nào rõ thấu được. Cái mà Tâm Lí Học hiện đại gọi là “tiềm thức”, “vô thức”, hay “đà sống” mới chỉ là những khái niệm gần gũi với a-lại-da; vì thực ra, a-lại-da còn sâu kín, rộng lớn và sinh động hơn nhiều. Nó chính là bản thể, là bản chất hiện hữu của sinh mạng và của cả môi trường trong đó sinh mạng tồn tại.
Thức a-lại-da được nhận biết qua ba tác dụng: chứa đựng, gìn giữ và biến hiện.
a) Tác dụng chứa đựng. Thức a-lại-da, trong trường hợp này được gọi là “tàng thức”, vì tác dụng của nó ở đây là chứa đựng (tàng), được miêu tả bằng ba đặc tính:
- Đặc tính thứ nhất, nó chính là khả năng chứa đựng (năng tàng).
- Đặc tính thứ hai, nó chính là nội dung chứa đựng (sở tàng).
- Đặc tính thứ ba, nó chính là đối tượng chấp ngã của thức mạt-na (ngã ái chấp tàng).
Những gì chứa đựng trong a-lại-da đều gồm trong ba lĩnh vực: tâm lí (các thức và các tâm sở), sinh lí (cơ thể và các giác quan), và vật lí (thế giới vật chất); hay nói cách khác, đối tượng của thức a-lại-da, theo danh từ Phật học, gồm có danh (tinh thần) và sắc (vật chất)(9); hoặc tổng quát hơn, đó là tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ – tất cả các pháp(5). Các pháp này luôn luôn ở một trong hai trạng thái: hoặc là trạng thái phát hiện (Duy Thức Học gọi là hiện hành, tức là thế giới hiện tượng); hoặc là trạng thái tiềm ẩn (Duy Thức Học gọi là chủng tử, tức là hạt giống).
Như vậy, tự thân của thức a-lại-da luôn luôn gồm đủ hai phần chủ thể (năng tàng) và đối tượng (sở tàng). Hai phần này không ngừng biến chuyển linh động: các chủng tử từ a-lại-da phát hiện thành hiện hành, các hiện hành rơi trở lại vào a-lại-da thành chủng tử... Sự hoạt động đó hoàn toàn vô thức, ý thức của chúng ta không thể nào biết được.
b) Tác dụng gìn giữ. Đã có khả năng hàm chứa, thức a-lại-da lại còn có khả năng duy trì và bảo tồn tất cả những gì được chứa trong nó. Duy Thức Học gọi tác dụng này là trì chủng – tức là gìn giữ mọi hạt giống. Với tác dụng này, a-lại-da còn được gọi là “trì chủng thức”. Nhờ có khả năng này mà các pháp không bao giờ bị tiêu mất, mà vẫn luôn luôn tồn tại, hoặc ở trạng thái chủng tử, hoặc ở trạng thái hiện hành. Cũng vậy, những nghiệp nhân do ta tạo ra không bao giờ mất đi, mà chúng sẽ tồn tại và chờ điều kiện thuận tiện để phát hiện thành quả báo. Quả báo đó như thế nào là do tổng thể những giá trị của các nghiệp nhân. Rốt cuộc, a-lại- da là tổng thể của nghiệp; hay nói khác đi, a-lại-da là chính bản thân của nghiệp, – bởi vậy, nó cũng được gọi là “nghiệp quả thức”.
c) Tác dụng biến hiện. Biến hiện là một tác dụng vô cùng quan trọng của thức a-lại-da. Đó là khả năng làm chuyển biến các chủng tử của các pháp, làm cho chúng chín muồi, chờ có điều kiện thuận tiện là phát hiện thành hiện tượng. Duy Thức Học gọi đó là tác dụng “dị thục”, và do đó, thức a-lại-da cũng còn được gọi là “dị thục thức”.
Chủng tử của vạn pháp được chứa đựng và gìn giữ ở a-lại-da bằng cách “huân tập” (hun đúc và chồng chất). Theo cách này, đối tượng của sáu thức trước, sau khi xuất hiện trên mặt ý thức, liền rơi xuống kho chứa a- lại-da và tồn tại ở đó trong trạng thái chủng tử. Các hành động tạo nghiệp của thân, khẩu, ý cũng y như vậy. Trong khi huân tập, chứa đựng và gìn giữ, a-lại-da gồm thâu vào tự thân nó tất cả mọi pháp thiện và ác, do đó, theo Duy Thức Học, tính chất của nó là vô phú vô kí (vô phú: không bị ngăn che; vô kí: không thiện cũng không ác). Mặt khác, trong diễn trình nhận thức, tác dụng của a-lại-da là thuần túy trực giác, cho nên hình thái nhận thức của nó là hiện lượng(2) (nhưng rất thâm mật, ý thức phàm tục không thể biết được), và chỉ liên hệ với 5 tâm sở biến hành(5) trong 51 tâm sở.
Trong thời gian được chứa đựng và duy trì (tức là ở trạng thái tiềm ẩn) ở thức a-lại-da, các chủng tử vẫn không ngừng chuyển biến dưới định luật nghiệp báo. Nếu chúng không được tiếp tục nuôi dưỡng thì sẽ bị yếu dần đi, khó phát hiện thành hiện hành, hoặc có thể bị đồng hóa bởi các chủng tử khác mạnh hơn, để cuối cùng bị tiêu mất, không còn hiện hành nữa. Nhưng nếu cứ được nuôi dưỡng, tăng cường và phát triển (nghĩa là cái quá trình chủng tử sinh hiện hành - hiện hành sinh chủng tử... được lặp đi lặp lại thường xuyên), thì một lúc nào đó chúng sẽ chín muồi để có thể phát hiện thành các hiện tượng. Các tác dụng huân tập, cất chứa, duy trì và làm chín muồi các chủng tử của thức a-lại-da được thực hiện vô cùng sâu kín, cái thấy của ý thức không thể nào soi thấu được.
Tính chất của chủng tử là chuyển biến không ngừng, và vì a-lại-da chính là tổng thể của các chủng tử, nên a-lại-da cũng không ngừng chuyển biến. Tuy biến chuyển như vậy, a-lại-da vẫn luôn luôn là một dòng liên tục, hoạt động không bao giờ gián đoạn. Vì vậy, Duy Thức Học nói bản chất của a-lại-da là hằng chuyển (vừa liên tục vừa thay đổi). Đó là tính chất căn bản và vô cùng quan trọng của thức a-lại-da, bởi vì, nếu không có tính chất này thì sẽ không có gì cả, không có vạn pháp, không có vũ trụ, không có sự sống...
Vì a-lại-da – cũng tức là chủng tử – là hằng và chuyển, cho nên vạn pháp cũng là một dòng liên tục, không có gì mất đi. Sự sinh diệt của một đời sống (hữu tình hoặc vô tình) chẳng qua chỉ là một lần thay đổi trong quá trình biến chuyển của cả dòng sống. Khi một cá nhân chết đi, những nghiệp nhân (chủng tử) hàm chứa trong a-lại-da vẫn tiếp tục chuyển biến, và sẽ chín muồi vào một lúc nào đó, rồi từ a-lại-da chúng sẽ hiện hành thành một sinh mạng (chánh báo) mới, trong một môi trường sống (y báo) mới.
Tùy theo bản chất và giá trị của tổng thể nghiệp lực, sinh mạng có thể được sinh ra ở một trong ba cõi (tam giới)(10), hoặc ở vào một trong mười địa (thập địa) của Bồ-tát hạnh(11). Khi có một đoạn sinh diệt như vậy xảy ra – nghĩa là khi có sự chuyển đổi từ một sinh mạng này sang một sinh mạng khác, thức a-lại-da lúc nào cũng bỏ đi sau cùng (sau khi các thức khác đã bỏ đi), và tới trước tiên (để an lập và phát hiện các thức khác); vì theo Duy Thức Học, a-lại-da là thức nền tảng, là “chủ nhân ông” của mọi thức khác.
Đường lối theo đó thức a-lại-da thác sinh vào các môi trường sống (3 cõi và 10 địa) cũng rất thâm diệu, ý thức không thể nào rõ thấu được.
Vì thức a-lại-da là hằng chuyển, cho nên theo phương pháp tu tập của giáo lí Duy Thức, hành giả có thể vừa không tiếp tục cho huân tập các chủng tử ô nhiễm (vô minh, tà dục) vào a-lại-da, vừa ngăn ngừa không cho các chủng tử ô nhiễm có sẵn trong a-lại-da tái hiện hành. Trong lúc đó, hành giả tiếp tục cho huân tập vào a-lại-da các chủng tử thanh tịnh (thiện, trong sáng, vươn tới từ bi, giác ngộ) và thường xuyên tạo điều kiện thuận lợi cho các chủng tử trong sạch có sẵn trong a-lại-da có dịp hiện hành. Các chủng tử ô nhiễm nếu không được nuôi dưỡng, bồi đắp thì dần dần sẽ bị yếu đi, bị lấn áp, thay đổi, đồng hóa và tiêu diệt bởi các chủng tử thiện. Bằng cách đó, a-lại-da sẽ không tiếp tục bị ô nhiễm mà dần dần sẽ được chuyển đổi sang trạng thái hoàn toàn thanh tịnh. Theo Duy Thức Học, khi hành giả tu tập và đạt đến địa thứ bảy (trong 10 địa) của Bồ-tát hạnh thì ý thức sẽ an trú được trong sự thông suốt về tính không của ngã và pháp, tà kiến vô thức về sự tồn tại của ngã hoàn toàn bị tiêu diệt, và lúc đó thức mạt-na liền được tách rời ra khỏi a-lại-da; hay nói cách khác, a-lại-da bấy giờ được thoát khỏi vòng tay của mạt-na, không còn làm đối tượng chấp ngã cho thức này nữa. Tuy nhiên, phải đợi đến khi đạt được địa thứ tám thì ý thức mới đủ khả năng tiêu diệt hoàn toàn tà kiến vô thức về sự tồn tại của pháp; theo đó, mọi vô minh và tà dục hoàn toàn tan biến, mọi chủng tử trở nên thuần túy thanh tịnh, và các thức đều chuyển thành tuệ giác giác ngộ: thức a-lại-da chuyển thành đại viên cảnh trí, thức mạt-na chuyển thành bình đẳng tánh trí, ý thức chuyển thành diệu quan sát trí, và năm thức cảm giác chuyển thành thành sở tác trí.(6)
Trong tám thức như vừa trình bày trên thì thức a-lại-da là thức nền tảng, căn bản, Duy Thức Học gọi nó là “căn bản thức”; bảy thức còn lại: mạt-na, ý, nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt và thân, đều được chuyển hiện, sinh khởi từ căn bản thức, cho nên chúng được gọi là “chuyển thức”. Mặc dù có tám thức nhưng về tác dụng thì chúng có ba tác dụng chính yếu: - Tác dụng chứa đựng, gìn giữ hạt giống và chuyển biến, phát hiện thành hiện hành – tức là tác dụng DỊ THỤC, là vai trò của thức a-lại-da, cho nên thức này cũng được gọi là TÂM; - Tác dụng suy nghĩ, so đo, tính toán, chấp ngã – tức là tác dụng TƯ LƯƠNG, là vai trò của thức mạt-na, cho nên thức này cũng được gọi là Ý; - Tác dụng tri giác, phân biệt đối với trần cảnh – tức là tác dụng LIỄU BIỆT CẢNH, là vai trò của sáu thức trước, cho nên sáu thức này còn được gọi là THỨC. Sự phân chia có tám thức như trên chỉ là một phương tiện để dễ tìm hiểu những mặt khác nhau của thức; nó không phải là cố định như thế. Thực ra, tám thức ấy chỉ là tám tác dụng, tám hành trạng, hay tám cách biểu hiện của nhận thức, chứ không phải là “tám cái tâm” riêng rẽ, biệt lập. Tuy là có tám thức, nhưng mỗi thức đều liên hệ mật thiết đến các thức khác; tuy một mà là tám, tuy tám mà là một, cho nên chúng cũng có thể thu về một mối, đó là THỨC – tức là CĂN BẢN THỨC, hay A-LẠI-DA THỨC. Một cách tổng quát, chúng ta có thể nói: Thức có ba tác dụng: tác dụng thứ nhất là tàng (hay dị thục), tác dụng thứ hai là tư lương, và tác dụng thứ ba là liễu biệt cảnh. Các kinh luận không chuyên về “duy thức”, thường dùng những tên gọi như TÂM, Ý, THỨC, hay NGHIỆP THỨC để chỉ cho phần “tinh thần” – khác với phần “thân thể” – của chúng sinh.
CHÚ THÍCH
(1) Xin xem mục “Sáu Giác Quan, Sáu Đối Tượng của Giác Quan, và Sáu Thức” ở trước, và mục “Một Trăm Pháp” ở sau.
(2) Xin xem lại mục “Ba Hình Thái Nhận Thức” ở trước.
(3) Xin xem lại mục “Ba Cảnh” ở trước.
(4) Xin xem lại mục “Ba Tính” ở trước.
(5) Xin xem mục “Một Trăm Pháp” ở sau.
(6) Xin xem lại mục “Bốn Trí Tuệ” ở trước.
(7) Xin xem lại mục “Sáu Giác Quan, Sáu Đối Tượng của Giác Quan, và Sáu Thức” ở trước.
(8) Xin xem lại mục “Bốn Phiền Não” ở trước.
(9) Chỉ ở hai cõi Dục và Sắc thì đối tượng của a-lại-da mới gồm đủ danh và sắc, còn ở cõi Vô-sắc thì chỉ có danh mà thôi.
(10) Xin xem lại mục “Ba Cõi” ở trước.
(11) Xin xem mục “Mười Địa” ở sau.
TÁM TRAI GIỚI
(bát trai giới - bát giới trai - bát quan trai giới)
Chữ “trai” nghĩa là làm cho tâm ý được thanh tịnh; chữ “giới” nghĩa là ngăn ngừa không để cho thân khẩu ý gây điều lầm lỗi. Có cả thảy tám giới. Những giới này giúp cho hành giả đóng bớt được những cánh cửa giác quan để ngăn chận các phiền não, tội lỗi, đó là ý nghĩa của chữ “quan”. Tám trai giới là một phương tiện lập ra để giúp người cư sĩ tại gia có cơ hội sống 24 giờ đồng hồ (trọn một ngày đêm) trong chùa theo cuộc sống li dục, thanh tịnh, chánh niệm của người xuất gia. Trong 24 giờ đó, Phật tử phải ăn chay và giữ gìn tám giới sau đây:
1. Không giết hại.
2. Không trộm cắp.
3. Không dâm dục (khác với “không tà dâm” của Năm Giới).
4. Không nói dối.
5. Không uống rượu và dùng các chất ma túy.
6. Không dùng dầu thơm, son phấn.
7. Không nằm giường nệm sang quí.
8. Không ăn ngoài giờ ấn định.
(Muốn biết cách thực tập, xin xem sách Đạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hằng Ngày của Nhất Hạnh.)
....................................
SỐ 9
CHÍN CÕI (cửu địa - cửu hữu)
Chín cõi chỉ là một cách phân chia khác của “ba cõi” hay “sáu nẻo”, đều chỉ cho cái vòng sinh tử luân hồi. Chín cõi ấy là:
1. Ngũ thú tạp cư địa: Cõi của năm loài có dục vọng cùng ở chung với nhau. Năm loài này là: Trời cõi Dục, Người, Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh. Nói cách khác, đây tức là cõi Dục, một trong ba cõi đã đề cập ở trước. Cõi Dục là nơi cư trú chung của năm loài tâm đầy dục vọng, cho nên danh từ Phật học cũng gọi cõi này là “Dục-giới ngũ-thú địa”.
2. Li sinh hỉ lạc địa: Cõi của chúng sinh do vừa thoát li khỏi cõi Dục đầy xấu ác khổ đau, nên tâm sinh niềm hỉ lạc; đó tức là cõi trời Sơ-thiền của cõi Sắc.
3. Định sinh hỉ lạc địa: Ở trên cõi trời Sơ-thiền là cõi trời Nhị-thiền. Chúng sinh ở cõi này, do an trú thường trực trong thiền định mà sinh niềm hỉ lạc thù thắng; cho nên gọi là “Định-sinh-hỉ-lạc địa”.
4. Li hỉ diệu lạc địa: Ở trên cõi trời Nhị-thiền là cõi trời Tam-thiền. Chúng sinh ở cõi này, do an trú trong thiền định thâm sâu mà bỏ được niềm vui có tính tự mãn của hai cõi trước, tâm trở nên an tĩnh hơn, niềm vui thanh thoát hơn; cho nên gọi là “Li-hỉ-diệu-lạc địa”.
5. Xả niệm thanh tịnh địa: Trên cùng của Sắc-giới là cõi trời Tứ-thiền. Chúng sinh ở cõi này, do an trú trong thiền định thâm sâu hơn nữa, nên dứt hẳn các niềm hỉ lạc của ba cõi dưới, sống trong cảnh giới thanh tịnh, tĩnh lặng, bình đẳng, sáng suốt; cho nên gọi là “Xả-niệm-thanh-tịnh địa”.
6. Không vô biên xứ địa: Tiến lên Vô-sắc giới, cõi trời đầu tiên là Không-vô-biên-xứ. Chúng sinh ở cõi này vừa thoát khỏi cái khung vật chất của Sắc giới để an trú trong thiền định không hình tướng, đầy tính tự tại của cảnh giới hư không vô biên; cho nên ở đây được gọi là “Không-vô-biên-xứ địa”.
7. Thức vô biên xứ địa: Tiếp đến là cõi trời Thức-vô-biên-xứ, là cảnh giới thiền định thứ hai của cõi Vô-sắc, chúng sinh được an trú trong cảnh giới mà thức hoàn toàn trải rộng trong không gian và thời gian vô hạn; cho nên gọi là “Thức-vô-biên-xứ địa”.
8. Vô sở hữu xứ địa: Ở trên cõi trời Thức-vô-biên-xứ là cõi trời Vô-sở-hữu-xứ, cảnh giới thiền định thứ ba của cõi Vô-sắc. Chúng sinh ở cõi này dứt bỏ được tính giao động của hai cõi trước, an trú trong cảnh giới mà tư tưởng hoàn toàn vắng lặng, không còn đến một niệm sở hữu; cho nên cảnh giới đó được gọi là “Vô-sở-hữu-xứ địa”.
9. Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa: Trên cùng của Vô-sắc giới là cõi trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; nơi đó, chúng sinh an trú trong cảnh giới thiền định cao tột của ba cõi, không còn niệm phân biệt có tư tưởng hay không có tư tưởng, không thiên có, không thiên không, hoàn toàn bình đẳng, an tịnh, cho nên gọi là “Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ địa”.
Tất cả 9 cõi này đều do nghiệp lực của chúng sinh mà hiện hữu, và đều có chúng sinh tồn tại, nên cũng được gọi là “chín hữu” (cửu hữu).
CHÍN ĐIỀU KIỆN GIÚP THỨC PHÁT SINH (cửu duyên sinh thức)
Vạn pháp do thức mà biểu hiện, nhưng thức cũng phải nương vào các điều kiện (duyên) mới phát sinh được. Thức gồm có 8 tác dụng: thấy (nhãn thức), nghe (nhĩ thức), ngửi (tị thức), nếm (thiệt thức), xúc chạm (thân thức), phân biệt (ý thức), suy nghĩ tính toán (mạt-na thức), chứa đựng tất cả chủng tử vạn pháp (a-lại-da thức). Các thức này muốn phát sinh, cần nương vào 9 điều kiện sau đây:
1. Ánh sáng (minh duyên). Đây là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đèn, hay bất cứ vật gì có thể phát sinh ra ánh sáng. Có ánh sáng thì mọi vật mới lộ rõ hình tướng, màu sắc, và nhờ đó mà con mắt mới thấy được. Không có ánh sáng thì mắt không thấy được gì cả, cho nên, ánh sáng là điều kiện giúp cho nhãn thức phát sinh.
2. Khoảng không gian (không duyên). Không gian không có gì chướng ngại, nhờ đó mà sắc tướng của mọi vật mới hiện rõ ra, giúp cho mắt thấy được đối tượng; nếu một vật được áp sát vào mắt (tức không có một khoảng cách cần thiết nào), thì mắt không thế thấy vật ấy được. Âm thanh cũng nhờ không gian mà chuyển động từ nơi này đến nơi khác, nhờ đó mà tai nghe được tiếng; tức là, tai cũng cần một khoảng không gian cần thiết thì mới nghe được tiếng, nếu một tiếng phát ra sát màng nhĩ, thì tai đã không nghe được mà màng nhĩ còn có thể bị hư hại. Vì vậy, không gian là điều kiện giúp cho nhãn thức và nhĩ thức phát sinh.
3. Giác quan (căn duyên). Thân thể con người có 5 căn (giác quan): nhãn (mắt), nhĩ (tai), tị (mũi), thiệt (lưỡi), và thân (thân thể nói chung). Nhãn thức nương nơi nhãn căn mới có thể thấy biết, nhĩ thức nương nơi nhĩ căn mới có thể nghe biết, tị thức nương nơi tị căn mới có thể ngửi biết, thiệt thức nương nơi thiệt căn mới có thể nếm biết, thân thức nương nơi thân căn mới có thể xúc biết. Bởi vậy, 5 thức phải nương vào 5 căn mới có thể sinh khởi tác dụng, nếu không có 5 căn thì 5 thức không thể phát sinh; cho nên, 5 căn là điều kiện giúp cho 5 thức phát sinh.
4. Cảnh (cảnh duyên). Cảnh, hay trần cảnh, là chỉ cho 5 đối tượng của 5 giác quan, là sắc, thanh, hương, vị, và xúc. 5 căn nhãn, nhĩ, tị, thiệt, và thân, tuy có cái biết (thức) thấy, nghe, ngửi, nếm, và xúc biết, nhưng nếu không tiếp xúc với đối tượng của chúng là 5 cảnh, thì thức không thể phát sinh được; cho nên, 5 cảnh là điều kiện giúp cho 5 thức phát sinh.
5. Tâm sở tác ý (tác ý duyên). Tác ý là một loại tâm sở, là một hiện tượng tâm lí có tác dụng kích thích, làm cho 5 thức (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân) chú ý, nhận biết lập tức đối tượng và dẫn tới ý thức khởi niệm phân biệt đối tượng ấy. Khi mắt (nhãn căn) vừa đối trước một vật (sắc cảnh) thì tâm sở tác ý này làm cho mắt nhận biết (nhãn thức) ngay, và mách bảo cho ý thức (thức thứ sáu) biết để khởi niệm phân biệt tốt xấu, lành dữ v.v... Khi các căn nhĩ, tị, thiệt và thân vừa đối trước đối tượng của chúng cũng vậy, đều nhờ có tâm sở tác ý mà nhận biết, rồi ý thức cũng nương nơi đó mà khởi niệm phân biệt. Cả 6 thức (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, và ý) đều nương nơi tâm sở tác ý mới có thể khởi sinh tác dụng, cho nên, tâm sở tác ý là điều kiện giúp cho 6 thức phát sinh.
6. Căn bản y (căn bản y duyên). Chữ “căn bản” ở đây là chỉ cho thức a-lại-da (tức thức thứ tám); chữ “y” nghĩa là nương dựa. A-lại-da là thức căn bản của tất cả các thức. 6 thức nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý nương nơi tướng phần của thức a-lại-da (tức là sum la vạn tượng) mà phát sinh; trong khi đó, tướng phần của thức a-lại-da cũng nương nơi 6 thức này mà hiện khởi; cho nên, căn bản y là điều kiện giúp 6 thức và thức thứ tám sinh khởi.
7. Nhiễm tịnh y (nhiễm tịnh y duyên). “Nhiễm tịnh y” là chỉ cho thức mạt-na (tức thức thứ bảy). Tất cả các pháp nhiễm hay tịnh đều nhờ thức mạt na mà chuyển. 6 thức nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, đối trước 6 trần cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, khởi sinh các phiền não hoặc nghiệp; đó gọi là pháp “nhiễm”. Các pháp ô nhiễm này được mạt-na thức chuyển vào a-lại-da thức thành các chủng tử hữu lậu. Nếu 6 thức tu tập các đạo phẩm thanh tịnh, đó gọi là pháp “tịnh”. Các pháp thanh tịnh này được mạt-na thức chuyển vào a-lại-da thức thành các chủng tử vô lậu. Vì gồm đủ cả nhiễm cả tịnh, nên gọi là “nhiễm tịnh y”. Lại nữa, thức mạt-na cũng y vào thức a-lại-da mới có thể chuyển; còn thức a-lại-da thì lại y nơi thức mạt-na mà tùy duyên; cả hai cùng nương nhau, dựa nhau, bởi vậy, nhiễm tịnh y là điều kiện giúp cho cả 8 thức, (từ nhãn thức cho đến a-lại-da thức) sinh khởi tác dụng.
8. Phân biệt y (phân biệt y duyên). “Phân biệt y” là chỉ cho ý thức (tức thức thứ sáu). Ý thức là thức có khả năng phân biệt để biết rõ sự khác nhau của vạn pháp trong vũ trụ, nào pháp thuộc về sắc, pháp thuộc về tâm; nào pháp thiện, pháp ác; nào cái hay, cái dở, cái dơ, cái sạch; v.v... Năm căn nhãn, nhĩ, v.v... tiếp xúc với 5 cảnh mà sinh khởi 5 cái biết (thức), nhưng phải nhờ ý thức phân biệt mới biết rõ các hình sắc xấu đẹp, các âm thanh hay dở, v.v... Sự nhiễm, tịnh của mạt-na thức cũng phải nhờ ý thức phân biệt mới biết rõ. Tướng phần của a-lại-da thức (sum la vạn tượng) cũng phải nhờ sức phân biệt của ý thức mới hiển lộ rõ ràng. Thậm chí, ý thức cũng phải nhờ sức phân biệt ấy mà biết rõ những ý tượng, những ảnh tượng ở trong chính bản thân nó. Cho nên, phân biệt y là điều kiện giúp cho cả 8 thức sinh khởi tác dụng.
9. Chủng tử (chủng tử duyên). Thức a-lại-da hàm chứa chủng tử của vạn pháp, hay nói cách khác, tất cả các căn, cảnh và thức đều do từ chủng tử hàm chứa trong thức a-lại-da mà phát hiện ra. Nhãn thức nương nơi chủng tử của nhãn căn mà có thể thấy sắc; nhĩ thức nương nơi chủng tử của nhĩ căn mà có thể nghe tiếng; tị thức nương nơi chủng tử của tị căn mà có thể ngửi mùi; thiệt thức nương nơi chủng tử của thiệt căn mà có thể nếm vị; thân thức nương nơi chủng tử của thân căn mà có thể xúc biết; ý thức nương nơi chủng tử của ý căn mà có thể phân biệt; mạt-na thức nương nơi chủng tử nhiễm tịnh mà được tương tục không gián đoạn; a-lại-da thức nương nơi chủng tử hàm chứa trong chính nó mà biểu hiện ra vạn pháp; tất cả các thức đều nương nơi chủng tử mà sinh khởi tác dụng, cho nên, chủng tử là điều kiện giúp cho 8 thức sinh khởi.
CHÍN LỖ (cửu khổng)
Khắp thân thể con người có chín lỗ, qua đó, các chất dơ bẩn từ bên trong tiết ra ngoài; gồm có: 2 lỗ con mắt (tiết ra nước mắt, ghèn); 2 lỗ mũi (tiết ra nước mũi); 2 lỗ tai (tiết ra ráy tai); miệng (tiết ra nước miếng, đờm); lỗ tiểu tiện (tiết ra nước tiểu); và lỗ đại tiện (tiết ra phân).
CHÍN PHÁP GIỚI (cửu giới - cửu pháp giới)
Chín pháp giới tức là 9 cảnh giới của mọi loài hữu tình trong vũ trụ, gồm có 6 cảnh giới của phàm phu (Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Bàng-sinh, A-tu-la, Người và Trời) và 3 cảnh giới của thánh nhân (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát). (Xin xem lại mục “Một Niệm Ba Ngàn” ở trước.)
CHÍN PHẨM HOA SEN (cửu phẩm liên hoa)
Theo giáo lí của tông Tịnh Độ (một tr
ong các tông phái Phật giáo đại
thừa) thì trong vũ trụ có một thế
giới tên là Cực-lạc (hay Tịnh-độ),
là quốc độ của đức Phật
A Di Đà. Sở dĩ có tên như vậy
là vì quốc độ ấy hoàn toàn trong
sạch, đẹp đẽ (từ các loài
hữu tình cho đến các loài vô
tình), hoàn toàn an vui, hạnh phúc, trí
tuệ cao diệu, sống lâu vô lượng,
chứ không phải xấu xa, dơ bẩn, sinh
sinh tử tử, đầy dẫy tham sân
si phiền não, ngập tràn đau khổ xót
xa như thế giới chúng ta hiện sống
ở đây. Theo đại nguyện của đức
Phật A Di Đà thì bất cứ chúng
sinh nào cũng có thể cầu được
vãng sinh về thế giới Cực-lạc
của Ngài, và khi đã được
vãng sinh về đó thì sẽ luôn luôn
có được các hoàn cảnh và
điều kiện thuận lợi để tu tập
thẳng đến quả vị giác ngộ, vĩnh
viễn không bao giờ bị luân chuyển
trở lại vào các thế giới khổ
đau. Muốn được vãng sinh về Tịnh-độ,
hành giả trước hết phải có ý
chí, phải có tâm tha thiết mong cầu vãng
sinh, và sau đó là chuyên cần tu tập
tịnh nghiệp làm nhân tốt cho việc vãng
sinh. Chúng sinh ở cõi Tịnh-độ được
hóa sinh từ hoa sen, và tùy theo tịnh
nghiệp nhiều ít của mỗi người
mà sẽ được vãng sinh về ở
một trong chín bậc hoa sen cao thấp khác nhau,
gọi là “chín phẩm hoa sen”. Chín
phẩm hoa sen này do đặt trên căn bản ba loại căn tánh của hành giả mà phân chia: Đó là căn tánh bậc thượng, căn tánh bậc trung và căn tánh bậc hạ. Mỗi loại căn tánh đó lại chia làm 3 bậc thượng, trung, hạ; cho nên có cả thảy là 9 phẩm.
Tóm lại, 9 phẩm hoa sen gồm có 3 cấp: trên (thượng),
giữa (trung), dưới (hạ); và mỗi
cấp lại chia làm ba bậc: cao (thượng),
vừa (trung), thấp (hạ), như sau:
1. Bậc cao của cấp trên (thượng phẩm thượng sinh - thượng thượng phẩm): Đây là bậc cao nhất trong 9 phẩm hoa sen. Để được vãng sinh về bậc này, hành giả tu pháp môn Tịnh Độ, trước tiên phải phát khởi 3 tâm: 1) tâm chí thành, 2) tâm tin sâu, 3) tâm hồi hướng phát nguyện; thứ đến phải tu tập 3 tịnh nghiệp: 1) giữ lòng từ bi không sát sinh, hành trì trọn vẹn giới luật đã thọ, 2) đọc tụng kinh điển đại thừa, 3) tu hành 6 niệm (xin xem lại mục “Sáu Niệm Tưởng” ở trước). Hành giả tinh tấn dũng mãnh, đến giờ phút lâm chung, đức Bồ-tát Quán Thế Âm bưng đài kim cang, cùng với đức Bồ-tát Đại Thế Chí, đến trước hành giả, đức Phật A Di Đà phóng ánh sáng lớn chiếu đến thân thể hành giả, và hành giả liền được đức Phật cùng với hai vị Bồ-tát đưa tay tiếp dẫn.
2. Bậc vừa của cấp trên (thượng phẩm trung sinh - thượng trung phẩm): Dưới bậc thượng thượng phẩm là bậc thượng trung phẩm. Để được vãng sinh về bậc này, hành giả cũng phát khởi 3 tâm (như trên), tuy không thọ trì đọc tụng và tu hành theo giáo pháp đại thừa, nhưng hiểu rõ đệ nhất nghĩa đế, tin sâu lí nhân quả; thì đến giờ phút lâm chung, đức Phật A Di Đà, hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, cùng vô lượng đại chúng, bưng đài bằng vàng y, đến trước hành giả, đưa tay tiếp dẫn.
3. Bậc thấp của cấp trên (thượng phẩm hạ sinh - thượng hạ phẩm): Dưới bậc thượng trung phẩm là bậc thượng hạ phẩm. Để được vãng sinh về bậc này, tuy hành giả không thể thọ trì đọc tụng và hiểu rõ nghĩa lí của giáo pháp đại thừa, nhưng tin sâu lí nhân quả; thì đến giờ phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, và chư thánh chúng, cầm hoa sen vàng, hóa hiện ra 500 vị Hóa Phật, đến trước hành giả đưa tay tiếp dẫn.
4. Bậc cao của cấp giữa (trung phẩm thượng sinh - trung thượng phẩm): Đây là bậc cao nhất của cấp giữa, tiếp dưới bậc thượng phẩm hạ sinh. Để được vãng sinh về bậc này, hành giả hành trì trọn vẹn 5 giới, thường tu 8 trai giới, không tạo tội ngũ nghịch, không lầm lỗi. Đến giờ phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng, phóng luồng ánh sáng sắc vàng kim, chiếu đến hành giả. Hành giả trông thấy như thế, tâm sinh vui mừng, tức thì thấy thân mình ngồi trên đài hoa sen.
5. Bậc vừa của cấp giữa (trung phẩm trung sinh - trung trung phẩm): Tiếp dưới bậc trung thượng phẩm là bậc trung trung phẩm. Để được vãng sinh vể bậc này, hành giả tu 8 trai giới trọn một ngày một đêm, hoặc hành trì trọn vẹn giới sa di hay giới cụ túc trong một ngày một đêm, oai nghi tề chỉnh không thiếu sót. Đến giờ phút lâm chung, hành giả thấy được đức Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng phóng luồng ánh sáng sắc vàng kim, bưng đài sen bảy báu đến tiếp dẫn.
6. Bậc thấp của cấp giữa (trung phẩm hạ sinh - trung hạ phẩm): Người thiện nam hay tín nữ nào, trong đời sống hằng ngày, hết lòng hiếu dưỡng cha mẹ, làm các việc nhân nghĩa giúp ích cho đời; rồi đến giờ phút lâm chung lại có duyên gặp được thiện tri thức nói cho nghe về cõi nước an vui của đức Phật A Di Đà, cùng 48 lời nguyện của tì kheo Pháp Tạng; người ấy chí thành tin tưởng, muốn vãng sinh, thì liền được vãng sinh về bậc trung hạ phẩm này.
7. Bậc cao của cấp dưới (hạ phẩm thượng sinh - hạ thượng phẩm): Người làm nhiều nghiệp ác, phỉ báng kinh điển đại thừa, không bao giờ biết hổ thẹn, nhưng đến giờ phút lâm chung, nếu có cơ duyên gặp được thiện tri thức nói cho nghe tên 12 bộ kinh đại thừa, và được dạy cho cách chắp tay xưng niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”; người ấy nghe kinh và xưng niệm danh hiệu Phật rồi, liền dứt trừ được tội chướng trong trăm nghìn kiếp. Lúc bấy giờ, hóa thân của đức Phật A Di Đà cùng hóa thân của hai đức Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đồng đến tiếp dẫn, người ấy liền được vãng sinh về hoa sen bậc này.
8. Bậc vừa của cấp dưới (hạ phẩm trung sinh - hạ trung phẩm): Người hủy phạm 5 giới, 8 giới, và cụ túc giới, ăn cắp vật dụng của tăng chúng, nói pháp bất tịnh, mà tâm không biết hổ thẹn, đến giờ phút lâm chung, lửa ở địa ngục liền ập tới bức bách; nhưng ngay lúc đó, nếu có cơ duyên gặp được thiện tri thức tán thán uy đức của đức Phật A Di Đà, người ấy liền dứt trừ được tội chướng sinh tử trong 80 ức kiếp, lửa địa ngục trở thành hơi mát mẻ, thổi các hoa trời, trong những hoa đó đều có hóa thân Phật và chư vị Bồ-tát đồng đến tiếp dẫn, liền được vãng sinh về hoa sen bậc này.
9. Bậc thấp của cấp dưới (hạ phẩm hạ sinh - hạ hạ phẩm): Đây là bậc thấp nhất trong 9 phẩm hoa sen. Người tạo tội ngũ nghịch, thập ác, không điều ác gì mà không làm; nhưng đến giờ phút lâm chung, nếu có cơ duyên gặp được thiện tri thức xót thương an ủi, nói cho nghe Phật pháp nhiệm mầu, dạy cho phép niệm Phật. Người ấy liền vui vẻ, đem tâm chí thành, cố gắng niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” liên tiếp 10 lần, thì cứ mỗi niệm dứt trừ được tội chướng sinh tử trong 80 ức kiếp, liền thấy có hoa sen vàng lớn như mặt trời ngay ở trước mặt; và người ấy được vãng sinh về hoa sen bậc hạ hạ phẩm ở nước Cực-lạc.
CHÍN PHÉP QUÁN TƯỞNG TRÊN THI THỂ (cửu tưởng quán)
Cửu tưởng quán là phép quán tưởng về chín tướng trạng, hay chín giai đoạn tàn hoại của thân thể con người sau khi chết; vì vậy nó cũng được gọi là “cửu tướng quán”. Đây là một trong các phép quán tưởng về bất tịnh mà người tu học thực tập để diệt trừ các vọng tưởng tham dục và đạt được an lạc, giải thoát. Cả chín phép quán tưởng đều tập trung vào thân thể của con người sau khi chết. Hành giả có thể quán tưởng ngay chính thân thể của mình, của thân nhân mình, hay của bất cứ một người nào khác. Tốt nhất là nên quán tưởng thi thể ấy đang nằm nơi đồng trống, từng bước tuần tự như các liệt kê ở sau đây:
* Phật Quang Đại Tự Điển liệt kê: 1. Quán tử thi trở nên bầm xanh; 2. Quán tử thi bị rữa, máu mủ rịn ra từ chín lỗ; 3. Quán tử thi sinh giòi tửa, bị chim thú ăn thịt; 4. Quán tử thi sình chương lên; 5. Quán máu mủ từ tử thi chảy ra lênh láng trên mặt đất; 6. Quán tưởng da thịt bầy nhầy, rữa nát; 7. Quán tưởng da thịt tiêu hết, chỉ còn xương gân vương vãi; 8. Quán tưởng tử thi bị thiêu đốt thành tro bụi; 9. Quán tưởng tử thi chỉ còn là một đống xương trắng tản mác.
* Tam Tạng Pháp Số ghi: 1. Quán tưởng tử thi sình chương lên; 2. Quán tưởng tử thi bầm xanh; 3. Quán tưởng tử thi da thịt bầy nhầy, đầu mình tay chân rã rời, phủ tạng rữa nát; 4. Quán tưởng tử thi, từ đầu đến chân, máu mủ chảy tràn lan; 5. Quán tưởng giòi mủ từ chín lỗ của thi thể tứa ra, da thịt nát bấy, vương vãi trên mặt đất, hôi thúi cùng cực; 6. Quán tưởng tử thi bị giòi bọ rúc rỉa, chim thú kéo đến mổ xé tơi bời; 7. Quán tưởng tử thi tan rã, gân đứt, xương lìa, đầu chân mỗi cái mỗi nơi; 8. Quán tưởng thi thể hoàn toàn tiêu hết da thịt, chỉ còn đống xương trắng phơi bày, rời rã; 9. Quán tưởng thi thể bị lửa thiêu đốt, cuối cùng chỉ còn tro bụi.
* Luận Đại Trí Độ ghi: 1. Quán tưởng thi thể sình chương; 2. Quán tưởng thi thể rã hoại; 3. Quán tưởng thịt máu tràn lan; 4. Quán tưởng mủ máu chảy khắp, rất là hôi thúi; 5. Quán tưởng thi thể xanh bầm; 6. Quán tưởng thi thể bị giòi trùng rúc ăn, chim thú mổ xé; 7. Quán tưởng gân xương đứt lìa, rời rạc mỗi thứ mỗi chỗ; 8. Quán tưởng thi thể bây giờ chỉ còn là xương trắng, vương vãi khắp nơi; 9. Quán tưởng thi thể bị lửa thiêu đốt, biến thành tro than.
* Sách Con Đường Chuyển Hóa (kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm) của Nhất Hạnh ghi: 1. Xác chết sình lên, xanh lại, thối nát ra; 2. Xác chết bị các loài giòi bọ rúc rỉa, bị quạ, diều hâu, kên kên và chó sói rừng xé ăn; 3. Xác chết chỉ còn là một bộ xương dính ít thịt và máu; 4. Chỉ còn là một bộ xương, hết thịt nhưng còn dính máu; 5. Chỉ còn là một bộ xương, không còn dính máu, nhưng các đốt xương còn dính vào nhau; 6. Chỉ còn một đống xương rời rạc; nơi này là xương ống tay, nơi kia là xương ống chân, nơi nọ là đầu lâu...; 7. Chỉ còn một đống xương trắng màu vỏ ốc; 8. Chỉ còn một mớ xương khô; 9. Xương đã mục, chỉ còn lại một mớ bụi.
Các liệt kê trên có chút ít khác biệt về thứ tự cũng như về các chi tiết. Do đó chúng ta thấy, tuy nói là “cửu tưởng quán”, thật sự, những đề mục quán tưởng không nhất thiết là có con số nhất định, có thể là 9, 10, hay nhiều hơn nữa; miễn là những đề mục ấy thuận theo một thứ tự hợp lí từ lúc bắt đầu cho đến lúc chấm dứt, cốt làm cho thấy rõ cái tính chất bất tịnh của thân xác con người. Một cách phổ thông, 9 phép quán tưởng ấy tuần tự như sau:
1. Quán tưởng để thấy thi thể trương phình lên.
2. Thấy thi thể đổi màu, trở thành xanh tím.
3. Thấy thi thể bắt đầu bị thối rữa.
4. Thấy máu, nước vàng... chảy ra.
5. Thấy từng mảnh thịt thối rã ra.
6. Thấy thi thể bị các loài chim, thú rứt rỉa.
7. Thấy đầu, mình, tay chân của thi thể rời ra.
8. Thấy xương trắng vương vãi lăn lóc trên đất.
9. Thấy xương thịt trở thành đất bụi, gió thổi bay đi, trở về với đất bụi.
.................................................
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập :
80
Hôm nay :
13636
Tháng hiện tại
: 541173
Tổng lượt truy cập : 32039812