Bát Nhã Tâm Kinh giảng giải

Thứ bảy - 03/09/2011 06:48
Kính thưa quí độc giả, đây là bài giảng thứ hai về "Bát Nhã Tâm Kinh". Bài này không có lời giới thiệu của Hòa Thượng, cũng được ghi lại từ trong băng cassette. Bài giảng này rất súc tích và rốt ráo để bổ túc cho bài giảng trước. Chính Hòa Thượng đã nói trước khi giảng:Bài này khi xưa tôi có giảng một lần, đã có chép lại ra thành sách; trong đó còn vài chi tiết tôi chưa hài lòng. Nhân trong một năm nhập thất, tôi thấy những điểm rất hay ..."

 

 

image
 

Xuất xứ

Kính thưa quí độc giả, đây là bài giảng thứ hai về "Bát Nhã Tâm Kinh". Bài này không có lời giới thiệu của Hòa Thượng, cũng được ghi lại từ trong băng cassette. Bài giảng này rất súc tích và rốt ráo để bổ túc cho bài giảng trước. Chính Hòa Thượng đã nói trước khi giảng:Bài này khi xưa tôi có giảng một lần, đã có chép lại ra thành sách; trong đó còn vài chi tiết tôi chưa hài lòng. Nhân trong một năm nhập thất, tôi thấy những điểm rất hay ..." (trích trong băng cassette).
Trong những năm trước, bài giảng thứ hai về Bát Nhã Tâm Kinh đã được chúng tôi để vào quyển Những bước tu thiền 1, nhưng quyển đó hiện nay đã gần hết, hơn nữa về văn thể và nghĩa lý liên tục nên chúng tôi thấy cần cho vào đây để về sau không bị thất lạc, đồng thời quí vị dễ dàng tìm hiểu tu học.

Suối Trắc Bá

Giảng đề Kinh

Bài Bát-Nhã Tâm-Kinh do ngài Huyền-Trang đời Ðường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ-Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.

Bát-Nhã Tâm-Kinh nói cho đủ ra là Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða Tâm-Kinh, gồm một phần chữ Phạn phiên âm: Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða, và một phần chữ Hán: Tâm-Kinh.

Ma-Ha, Trung Hoa dịch là lớn, là đại. Bát-Nhã là trí tuệ. Ba-La Mật-Ða là đáo bỉ ngạn, hay là đến bờ bên kia; gần đây dịch là cứu kính. Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða, đó là trí tuệ rộng lớn cứu kính.

Tâm Kinh là kinh nói về Tâm. Nếu hiểu rõ Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða, đó tức là Tâm Kinh. Vì sao? Vì trí tuệ rộng lớn cứu kính, còn gọi là trí tuệ Bát-Nhã, tức là Tâm vậy.

Trong kinh Bát-Nhã có nói:"Bát-Nhã vô tri vô sở bất tri", nghĩa là "Bát-Nhã không biết mà không chỗ nào chẳng biết (hay không cái gì chẳng biết)". Không biết nghĩa là Bát-Nhã đối với cảnh không khởi vọng thức phân biệt. Không chỗ nào chẳng biết vì Bát-Nhã là trí tuệ hằng sáng, hằng giác dụ như gương sáng; tất cả cảnh vật hoặc người qua lại đều hiện rõ ràng không thiếu sót. Biết mà không khởi vọng thức phân biệt là cái biết của Tâm.

Giảng văn Kinh

Chánh văn: Quán Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách

Dịch: Bồ-Tát Quán Tự Tại khi hành sâu trí tuệ Bát-Nhã cứu kính, soi thấy năm uẩn đều không, qua tất cả khổ ách

Giảng: Trong đây khó nhứt là chữ "KHÔNG". Toàn bộ Ðại Bát-Nhã gồm 600 quyển, rất rộng, rất nhiều; ở đây vì bài Kinh quá rút gọn, nên người đọc khó nhận ra được ý nghĩa.

"Soi thấy năm uẩn đều không" bằng cách nào? Chữ "KHÔNG" đây là: Soi thấy năm uẩn đều không có tự tánh, chứ không phải là không ngơ (không trơn) hay là chơn không.

Không ngơ (hay không trơn) là: không có gì hết, tức là chấp không. Hiểu chữ "KHÔNG" như vậy là sai lầm, không đúng theo tinh thần Bát-Nhã là phá chấp có và phá chấp không.

"KHÔNG" nếu hiểu là chơn không lại càng không ổn. Vì chơn không không thể giải thích bằng ngôn ngữ văn tự được.

Ðể hiểu rõ chữ "KHÔNG", chúng ta cần biết qua ba thời kỳ Phật giáo:

  1. Sơ kỳ Phật giáo: Giải thích pháp Tứ Ðế, Thập Nhị Nhân Duyên, cho đây là chân lý. Ðây còn nằm trên hình thức, nói về tướng: Hoặc có, hoặc không, hoặc thiện, hoặc ác ...
  2. Trung kỳ Phật giáo: Nói về lý: "TÁNH KHÔNG", tức là lý Bát-Nhã.
  3. Hậu kỳ Phật giáo: Nói về lý: "CHÂN KHÔNG DIU HU".

Chữ "KHÔNG" trong Bát-Nhã là không tự tánh, hay không tánh. Học Bát-Nhã là học lý tánh không. Tánh không là gì? Tánh là: Danh từ chỉ cái gì cố định, bất di bất dịch. Tánh không chỉ tất cả các pháp thế gian này đều không có cái gì cố định, bất di bất dịch, nghĩa là hằng đổi dời, không thật. Tinh thần Bát-Nhã chống lại nghĩa "TÁNH HU" (tánh có), tức là các pháp đều có tự tánh, đều có cái gì cố định, đều là thật; quan niệm tánh hữu là không đúng theo lý Bát-Nhã.

Các pháp thế gian không cố định nên không phải là thật, do duyên hợp nên không phải là không ngơ.

Soi thấy năm uẩn đều không: Tức là soi thấy năm uẩn đều không có tính cách cố định. Khi soi thấy năm uẩn đều không cố định, nên qua hết tất cả khổ nạn. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay bị bệnh chấp ngã. Chấp ngã là mỗi người đều chấp thân tâm mình là thật có, tức là thường còn, thường nhất không thay đổi.

Thử hỏi chúng ta, ai thấy được con người mình luôn luôn thay đổi? Từ thuở bé đến khôn lớn 40, 50 tuổi, con người mình khi trước và ngày nay là một hay là hai? Nếu nhận thấy nó không khác, là thường nhứt, đó gọi là chấp ngã. Nhưng kiểm lại xem con người mình về tâm lý và sinh lý từ lúc bé thơ đến tuổi già nua có thực là thường nhứt, có thật không thay đổi, có thật là một chăng? Nhận xét như vậy mới biết chấp ngã là một quan niệm sai lầm của con người.

Bệnh thứ hai của chấp ngã là chấp chủ tể. Bệnh chấp chủ tể tức là chấp mình làm chủ trọn vẹn con người mình về cả hai mặt sinh lý và tâm lý. Ai cũng thầm nghĩ thân này là của tôi, tức là tôi làm chủ nó trọn vẹn, cũng như tôi có cái nhà và bàn ghế trong nhà, tôi làm chủ trọn vẹn tức là tôi có trọn quyền sử dụng nó, không ai ngăn cản hay sửa đổi được.

Nhưng tôi có thật sự làm chủ con người tôi hay không? Về mặt sinh lý, tôi muốn cho thân thể được khỏe mạnh hồng hào, nhưng đôi khi nó cũng bị đau yếu nhức nhối, đòi hỏi phải thuốc thang chữa trị. Như vậy tôi đâu có thật là chủ của thân tôi. Về mặt tâm lý, tôi không làm chủ được tư tưởng của tôi: Như trong lúc ngồi thiền, tôi suy nghĩ miên man hết việc này đến việc khác; tôi muốn tâm tôi được thanh tịnh mà có mấy khi được như vậy.

Hai quan niệm chấp ngã: Ngã là thường nhứt và ngã là chủ tể, là hai quan niệm sai lầm và lệch lạc. Do bệnh chấp sai lầm này nên chúng ta đau khổ. Nếu chúng ta nhận thấy rõ con người mình không thường nhứt và không có chủ tể là chúng ta phá được bệnh chấp ngã.

Trong thời sơ kỳ Phật giáo, để phá bệnh chấp ngã, Ðức Phật bảo: Thân này do tứ đại hòa hợp cho những người thiên chấp về vật chất; thân này do ngũ uẩn hòa hợp cho những người thiên chấp về tinh thần.

Sắc: Nếu thân này đã do tứ đại hòa hợp, tức là bốn đại: đất, nước, gió, lửa hò hợp thì thân này không có nghĩa là thường nhứt được. Trong bốn đại không đại nào làm chủ, nên biết thân này không có chủ tể.

Nếu thiên chấp về tâm, Phật dạy: Thân này do ngũ uẩn hòa hợp, tức là ngoài sắc uẩn để chỉ cho thân, còn bốn uẩn thuộc phần tâm lý là: thọ, tưởng, hành, thức.

Thọ là cảm giác, lãnh thọ (chấp nhận). Ví dụ: khi mắt nhìn thấy cảnh đẹp, mình nhận đây là cảnh đẹp, rồi vui thích gọi là thọ lạc của con mắt, khi nhìn thấy cảnh xấu, mình nhận đây là cảnh xấu và cảm thấy chán ghét gọi là thọ khổ của con mắt. Khi nghe tiếng nhạc hay tiếng khen, mình cảm thấy vui thích gọi là thọ lạc của lỗ tai, khi nghe tiếng dở và tiếng chê, mình cảm thấy ghét giận gọi là thọ khổ của lỗ tai. Như vậy khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với sáu trần bên ngoài, khi cảm thấy vừa ý và vui thích gọi là thọ lạc, khi cảm thấy chán ghét và chán ghét gọi là thọ khổ. Cảm nhận sự vui buồn thương ghét gọi là thọ uẩn, tức là về phầm tâm lý hay tâm thức.

Tưởng là những nghĩ tưởng về các cảnh đã thấy. Như khi tưởng lại các cảnh đã thấy ở thành phố hay ở núi non, thì các cảnh ấy hiện ra với mình. Hoặc khi chúng ta tưởng đến việc vị lai, những cảnh hiện ra với mình. Như vậy những nghĩ tưởng trở về quá khứ hay hướng đến tương lai là thuộc về tinh thần hay tâm thức.

Hành là những suy tư của mình tiếp nối miên man sinh diệt chẳng dừng ở một điểm. như khi chúng ta đang suy nghĩ một vấn đề gì, tâm tư chúng ta luôn luôn bước tới từ việc này sang việc khác liên tục không ngừng nhu người bộ hành đi đường, bước này tiếp nối bước kia không dừng. Hành cũng thuộc về tâm thức.

Thức là cái phân biệt. Ví dụ mắt thấy sắc, phân biệt là đẹp là xấu; tai nghe tiếng, phân biệt là hay là dở... Phân biệt gọilà thức, thuộc về tinh thần.

Thọ, tưởng, hành, thức, bốn phần này thuộc về phần tâm. Vì tâm do bốn uẩn kết hợp không thể là thường nhứt; cũng không có chủ tể, vì không uẩn nào là chủ. Tại sao năm thứ đều gọi là uẩn? Uẩn nghĩa là chứa nhóm hay tích tụ. Sắc chứa nhóm bốn đại hay tích tụ bốn đại, thọ chứa nhóm sáu cái thọ của sáu căn.

Trong thời kỳ sơ kỳ Phật giáo, tức là thời kỳ nguyên thủy: Phật thuyết pháp "vô ngã" để phá bệnh chấp ngã về thân và về tâm. Con người chúng ta là tướng duyên hợp do tứ đại hay ngũ uẩn kết hợp không thật, nên không thường nhứt và không có chủ tể. Vô ngã là không có một cái ngã thường nhứt và chủ tể.

Nhiều người hiểu lầm nghĩa vô ngã, cho rằng vô ngã là không ngơ, tức là không có mình, không có thân này. Nếu không có thân này thì ai đang sống đây, ai đang hoạt động, ai đang thọ khổ, thọ vui? Có thân này chúng ta mới có cảm giác nóng lạnh, đau nhức hay êm dịu; có tâm này nên chúng ta mới có cảm nhận,suy tư hay phân biệt. Nhưng thân và tâm này do duyên hợp tạo thành, nên không thường nhứt và không có chủ tể: Gọi là vô ngã.

Lại có nhiều người nghĩ lầm con người mình, thân cũng như tâm, từ xưa đến ngày nay là một, không biến đổi (nghĩa là thường nhứt) mình làm chủ mình hoàn toàn, mình làm chủ mình (nghĩa là chủ tể). Nhưng thật sự thể xác và tinh thần chúng ta từ xưa đến ngày nay dã đổi thay không biết bao nhiêu lần (không thường nhất), và chúng ta có thật sự bao giờ làm chủ chúng ta đâu (không có chủ tể). Nếu chúng ta không nhận đúng được lẽ thật mà khăng khăng bám chặt vào quan niệm sai lầm ấy, gọi là chấp. Có một quan niệm sai lầm về thân và tâm là thường nhất và có chủ tể gọi là chấp ngã. Và chấp ngã là nguyên nhân của tất cả khổ đau trong cuộc đời.

Ðến giai đoạn thứ hai là thời trung kỳ Phật giáo, đức Phật không còn nói thân này không thật vì do tứ đại hay ngũ uẩn duyên hợp giả có. Ðúc Phật đi thẳng vào năm uẩn, soi thấy từng uẩn một đều không cố định. Vì mỗi uẩn không có tánh cố định, luôn luôn biến chuyển và đổi dời nên không thường nhất và không chủ tể, còn gọi là không tự tánh. Năm uẩn còn không cố định huống là cái hợp thể do năm uẩn hợp lại tức là thân và bản ngã của chúng ta làm sao cố định được.

Lấy một ví dụ cho dễ hiểu là bàn tay chúng ta: Năm ngón tay co lại hợp thành nắm tay. Nắm tay này không cố định, nếu cố định thì đâu đợi năm ngón co lại mới họp thành. Nếu xòe bàn tay chia là từng ngón một thì đâu có nắm tay. Năm ngón co lại thành nắm tay, thử hỏi ngón tay nào là chủ nắm tay? Trong năm ngón không có ngón tay nào làm chủ nắm tay, nên nghĩa chủ tể nắm tay không thành được. Nắm tay do năm ngón tay co lại nên không thường nhứt, nếu thường nhứt thì đâu đợi năm ngón co lại mới thành, nếu thường nhứt thì khi xòe bàn tay chia từng ngón một, nắm tay đâu? Cái thường nhứt có còn không?

Như vậy nghĩa thường nhứt của nắm tay cũng không. Nắm tay trước không có, do duyên hợp tạm có, duyên tan thì mất đ, không thường nhứt, không chủ tể nên gọi là không cố định.

Qua giai đoạn thứ hai, chúng ta không nhắm vào nắm tay nữa, mà nói từng ngón tay, mỗi ngón tay có thật hay không? Có đủ hai nghĩa thường nhứt và chủ tể hay không? Mỗi ngón tay cũng là tướng duyên hợp do xương, gân, máu, thịt hợp thành, nên không có đủ hai nghĩa thường nhứt và chủ tể, năm ngón tay không thường nhứt và không chủ tể huống là nắm tay. ngón tay trước là đơn vị họp thành nắm tay, chính mỗi ngón tay ấy cũng là một hợp thể, cũng là tướng duyên hợp tạm bợ không thật không cố định.

Ðức Phật đi thẳng vào từng uẩn một của thân năm uẩn, soi thấy mỗi uẩn đều không thấy cố định nên gọi là "Soi thấy năm uẩn đều không, nên qua hết khổ nạn". Làm sao qua được khổ nạn? Khổ nạn từ đâu mà có? Nếu hỏi: Ai khổ? Trả lời: Tôi khổ, tôi bị tai nạn. Tôi là gì? Là bản ngã, là cái tôi trước sau như một, là cái mình làm chủ. Nếu cái tôi trước sau như một, gặp điều gì trái sở thích gọi là khổ, gặp việc gì làm nó suy giảm gọi là nạn. Sở dĩ có khổ nạn là vì nhìn vào bản ngã, vếu bản ngã không thì khổ nạn còn không? Bản ngã không còn, không có nghĩa là không ngơ, mà có nghĩa là không cố định. Bởi bản ngã không cố định nên là tướng duyên hợp, bởi là tướng duyên hợp nên tạm bợ hư dối, đổi dời luôn luôn không dừng; không có chủ thể, không thường nhứt đó là nghĩa vô ngã. Nếu ngay nơi năm uẩn, thấy rõ mỗi uẩn luôn luôn đổi dời không chủ thể và không thường nhứt, thì cái thân do năm uẩn hợp lại làm sao có chủ thể và thường nhứt được. Nên nói: "Soi thấy năm uẩn đều không, tất cả khổ nạn theo đó liền dứt".

Nếu chúng ta thấy rõ thân này, về phần sinh lý cũng như tâm lý đều là tướng duyên hợp đổi dời không cố định, thì mới biết thân này là hư dối không thật, cái ngã này là hư dối không thật, và những gì đến với cái ngã hư dối không thật này, dù là tốt xấu hay vui buồn cũng đều hư dối không thật, thì còn gì gọi là khổ ách nữa. Nên nói: "Soi thấy năm uẩn đều không thì qua hết khổ nạn"

Người tu hành chỉ cần soi thấy năm uẩn đều không là qua hết khổ nạn, là được giải thoát. Nhưng chúng ta phải soi thời gian bao lâu mới thấy năm uẩn đều không? Bồ-Tát Quán Tự-Tại hành thâm Bát-Nhã Ba La Mật-Ða thời ... Soi đây là hành, thâm đây là sâu xa đến bao giờ thâm nhập được trí tuệ Bát-Nhã, khi ấy xem thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ nạn đều qua.

Trên đường tu tập Bát-Nhã, chúng ta soi thấy năm uẩn đều có rõ ràng, như vậy lời Phật dạy không đúng sao? Ðó là chúng ta chưa hành thâm Bát-Nhã. Thâm đây không phải là năm mười ngày, đôi ba tháng hay đôi ba năm, thâm đây là là thâm nhập sâu xa trí tuệ Bát-Nhã khi ấy xem thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ nạn đều qua.

Sở dĩ chúng ta đau khổ là vì mê lầm về bản thân nên sanh chấp ngã. Với trí tuệ Bát-Nhã chúng ta thấy đúng như thật: Thân tâm này là tướng hư dối luôn luôn biến chuyển không cố định, nên không còn mê chấp nữa. Không mê lầm chấp ngã nên hết khổ nạn. Giả sử có ai gọi tên ta sỉ vả đủ điều, nếu chúng ta dùng trí tuệ Bát-Nhã thấy đúng như thật thân tâm này là tướng hư dối, không còn chấp ngã thì các đau khổ liền dứt. Người học đạo phải thấy đúng như vậy, vì đó là căn bản của sự tu hành.

Chánh văn: Xá Lợi Tử sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệt phục như thị.

Dịch: Phật bảo: Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.

Giảng: Ðến đây đức Phật đi vào chi tiết, bảo ngài Xá-Lợi-Tử: Sắc (chỉ cho sắc uẩn) chẳng khác với không, không chẳng khác với sắc. Không đây không phải là không ngơ, hay trống không của hư không. Không đây là không tự tánh tức là không cố định. Sắc uẩn là phần thân tứ đại, thân tứ đại này là tướng duyên hợp đổi dời không cố định. Chính thân tứ đại này bản chất là không cố định, nên không khác với không. Nếu thân tứ đại này cố định tức khác với không rồi. Cho nên nói" "Sắc uẩn chẳng khác với cái không cố định và cái không cố định chẳng khác với sắc uẩn".

Ví dụ: Cái bàn này là tướng duyên hợp nên không cố định, như vậy cái không cố định chẳng khác với cái bàn. Vì sao? Vì ngay nơi cái bàn tự nó đổi dời sanh diệt nên không cố định, và cái không cố định là sẵn nơi cái bàn, và ngay nơi cái bàn: "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc là như vậy".

Sắc tức là không, không tức là sắc": Trong đoạn trước còn so sánh, thấy dường như hai: Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Ðến đây Phật chỉ thẳng: Chính sắc uẩn là không cố định, không cố định chính là sắc uẩn. Nghĩa là: Thân tứ đại này là tướng biến đổi không cố định, không cố định là thân tứ đại này. Nếu thân tứ đại này là cố định thì không sanh diệt, nhưng thân bị sanh diệt tức bản chất nó không cố định.

Ví dụ, cái bàn này là không cố định, cái không cố định tức là cái bàn này, không phải rời cái bàn này có vái không cố định ở ngoài.

Nhiều người cho rằng sắc là sắc, không là không, vì sao lại nói: "Sắc tức là không, không tức là sắc". Phải hiểu chữ "KHÔNG" đây là "không cố định" là "sanh diệt đổi dời".

Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Nghĩa là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, bốn uẩn này cũng lại như thế. Không cố định tức là thọ uẩn. Tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cũng đều như vậy: Chẳng khác với không cố định và tức là không cố định.

Chánh văn: Xá Lợi Tử thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.

Dịch: Phật bảo: Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng thêm, chẳng bớt.

Giảng: Tướng không của các pháp ấy: Tức là tướng không của các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tướng không cố định ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng thêm, chẳng bớt. Vì sao? Vì là không cố định, nếu nói sanh tức là cố định mất rồi, nói diệt tức là cố định mất rồi; nếu sanh thì đâu có diệt, nếu là diệt thì làm sao có sanh? Cho nên nói: Tướng không cố định không phải sanh, không phải diệt là như vậy. Nó không phải là nhơ, không phải là sạch, vì nếu là nhơ tức không bao giờ đổi thành sạch được, nếu là sạch tức không khi nào biến thành nhơ được. Nên nói: Tướng không cố định không phải nhơ, không phải sạch. Cũng như vậy, tướng không cố định của các pháp không phải thêm, không phải bớt.

Nói tóm lại, tướng không cố định của các pháp không phải sanh, không phải diệt, không phải nhơ, không phải sạch, không phải tăng, không phải giảm, tướng không cố định ấy không phải là tất cả những tướng đối đãi. Vì sao? vì nếu nó là cái này hay là cái kia tức là nó cố định mất rồi. Vì tướng không cố định, nên nó có thể sanh biến thành diệt, nhơ biến thành sạch, tăng biến thành giảm, hoặc là diệt biến thành sanh... Tướng của các pháp tùy duyên đổi thay nên không cố định. Vì là tùy duyên đổi thay nên không thể xác nhận nó là cái gì được.

Tỉ dụ như chúng ta có một ly nước đang trong sạch, nếu đem bỏ vào một cục đất thì ly nước biến thành nhơ đục mất rồi. Như vậy ly nước không cố định phải là sạch, phải là nhơ mà tùy duyên, tức là từ sạch, do duyên đổi biến thành nhơ. Nếu là cố định, khi sạch phải sạch mãi không nhơ, khi nhơ phải nhơ mãi không sạch, mà thật ra nó tùy duyên thay đổi, làm sao gọi là cố định. Ðó là ý nghĩa tướng không cố định của các pháp, nó không phải là cái gì hết vì nó là tướng tùy duyên.

Chánh văn: Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới chí vô ý thức giới

Dịch: Thế nên, trong cái không cố định ấy, nó không phải là sắc, không phải là thọ, tưởng, hành, thức (tức không phải năm uẩn); nó không phải là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (tức không phải sáu căn), nó không phải sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (không phải sáu trần), nó không phải là nhãn giới cho đến không phải ý thức giới (tức là mười tám giới).

Giảng: Ở đây Phật dạy tướng không cố định ấy, không phải là năm uẩn, không phải sáu trần, không phải sáu căn, không phải là mười tám giới. Nếu nó là cái nào tức là cố định mất rồi. Vì nó không phải cái nào hết nên nó mới tùy duyên, không cố định. Nên nhớ chữ "VÔ" (không) đây không phải: Không phải sắc, không phải thọ, tưởng, hành, thức... Vì căn cứ trên tướng không cố định mà nói như vậy.

Thường chúng ta chấp nặng sắc thân, đức Phật dùng tứ đại để phá chấp. Khi chấp nặng phần tâm lý, đức Phật dùng ngũ uẩn để phá chấp. Khi chúng ta chấp về căn, thân và trần cảnh, đức Phật dùng thập nhị xứ (sáu căn + sáu trần) để phá chấp. Khi chấp căn, trần và thức, đức Phật dùng thập bát giới (sáu căn + sáu trần + sáu thức) để phá chấp. Cho nên nói: Không phải nhãn giới cho đến ý thức giới. Nói tóm lại, trong cái không cố định không phải là sáu căn (lục nhập); không phải thập nhị xứ; không phải mười tám giới, nghĩa là cái không cố định không phải là tất cả các pháp thế gian.

Chánh văn: Vô vô minh, diệc vô vô minh tận. Nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc

Dịch: Không phải vô minh, cũng không phải hết vô minh. Cho đến không phải lão tử, cũng không phải hết lão tử. Không phải tập, diệt, đạo. Không phải trí cũng không phải đắc.

Giảng: Ðây là chỉ pháp xuất thế gian: Thập nhị nhân duyên thuộc về sơ kỳ Phật giáo, nhân duyên đầu là vô minh, hành, thức, danh, sắc... cho đến lão tử, đó là chiều lư chuyển. Vô minh diệt, hành diệt, thức diệt... cho đến lão tử diệt, đó là chiều hoàn diệt. Như thế trong cái không cố định này, nó không phải là mười hai nhân duyên trong chiều lưu chuyển; cũng không phải mười hai nhân duyên trong chiều hoàn diệt.

"Không phải khổ, tập, diệt, đạo". Ðó là pháp tứ đế. Nghĩa là trong cái không cố định, nó không phải khổ đế, không phải tập đế, không phải diệt đế, không phải đạo đế. Pháp tứ đế thuộc về sơ kỳ Phật giáo, là bốn pháp chân thật không dời đổi tức là cố định. Nhưng ở đây nói không phải là khổ, tập, diệt, đạo là để phá cái chấp cố định của Tiểu thừa.

Tiểu thừa đối với giáo pháp Phật nói cho là chân lý, nên chấp chặt đó là thật. Nhưng ở đây phá luôn cái chấp mười hai nhân duyên và Tứ đế, vì sao? Vì mười hai nhân duyên và Tứ đế là tướng không thật, đổi dời không cố định.

"Không phải trí, cũng không phải đắc". Ðây là nói quan niệm Bồ Tát dùng lực Ba La Mật để độ chúng sanh, nhưng trong lực Ba La Mật, trí Ba La Mật là căn bản. Nếu Bồ Tát dùng lực Ba La Mật để độ chúng sanh sẽ đắc quả Sơ địa Bồ Tát đến Thập địa Bồ Tát tức là có trí có đắc. Nhưng sự thật ở đây nói không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc tức là không có cái gì để chứng được.

Sự thật các pháp thế gian, tại sao nói không cố định, không phải tất cả pháp thế gian?
Không phải tất cả pháp thế gian, nghĩa là không phải tất cả pháp đối đãi của thế gian. Cái không cố định đó, nó không phải cái gì trong các pháp đối đãi thế gian, bởi vì nếu nó là cái gì thành cố định cái đó rồi, cho nên nói: Cái không cố định nó không phải tất cả pháp thế gian, nhưng nó là tất cả pháp thế gian. Tất cả pháp đối đãi thế gian không khác với không cố định mà chính là không cố định. Ðây là ý nghĩa thâm trầm của tinh thần Bát Nhã.

Thường thường tất cả các pháp thế gian, khi người ta lập ra cái gì họ đều cố định cái ấy. Xét cho kỹ có pháp thế gian nào mà chúng ta không chấp là thật đâu? Khi nói phải, chúng ta chấp phải là thiệt. Khi nói quấy chúng ta chấp quấy là thiệt. Nói tốt, xấu, dài, ngắn đều chấp là thiệt. Nói cái gì đều chấp cái đó là thiệt. Nhưng thử hỏi cái ấy có thiệt không? Có cố định không? Nếu nói phải, có cố định là phải chăng? Nói quấy có cố định là quấy không?

Ở thế gian khi người ta nói như thế này là phải, thì tất cả mọi người nghe theo nhận đó là phải và cho cái phải đó là cái cố định. Nhưng người khác lại nói: Như thế kia là phải, thì sao? Tức nhiên cái phải quấy chỉ là cái bày ra đấy thôi. Cái bày ra đó của ai? Tức nhiên của những người lớn có uy quyền, rồi người sau bắt chước, chấp đó là phải, là cố định. Tỉ dụ như hồi xưa, các cụ Nho nói người nữ là: "khuê môn bất xuất", cho đó là phải. Lúc đó mọi người đều thấy như thế là phải, người nữ phải "khuê môn bất xuất". Nhưng ngày nay người nữ ngang quyền với người nam, có quyền ra ứng cử thủ tướng... Như vậy, quyền bình đẳng đó là phải hay là quấy? Nếu hiện nay là phải, thì cái phải ngày xưa với cái phải ngày nay còn là một được không? Có khác nhau không? Nếu ngày xưa phải thì hiện nay đâu phải? Nếu ngày nay phải thì ngày xưa hết phải. Như vậy ai phải? Cái nào phải?

Qua tỉ dụ trên, chúng ta thấy cái phải không cố định, nó tuỳ theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp, tùy theo sự sắp đặt của người trên trước, có uy quyền. Thời đó phải sống như vậy mới là phải, tức là cái phải của thời đó, của lúc đó mà thôi, chớ đâu phải miên viễn muôn đời. Nếu chúng ta chấp cái đó là phải, mà có người nói khác đi tức nhiên chúng ta phản đối cự lại, do đó sinh ra bao nhiêu tranh cãi phiền phức.

Xét kỹ lại tất cả cái phải đều không cố định, đã không cố định thì đâu có thiệt. Cái phải đã như vậy thì cái quấy cũng như vậy. Giả sử có những việc ngày xưa cho là quấy, ngày nay trở thành phải, cũng có những việc ngày xưa cho là phải, ngày nay trở thành quấy. Mỗi thời mỗi lúc đều mỗi khác, cho nên cái phải quấy đều không cố định. Nếu chúng ta chấp sự việc là cố định tức nhiên là sai lầm rồi, là không đúng sự thật.

Cái thiện cái ác có cố định được không? Thường thường chúng ta hay nói làm việc này là thiện, làm việc kia là ác, nhưng ... Tỉ dụ, một hôm ngồi trên thiền thất, vào buổi chiều, tôi thấy một con kỳ nhông đang bò trên thân cây tràm ở trước cửa thất. Bỗng từ xa bay nhanh lại một con chim bìm bịp chực chụp mổ con kỳ nhông. Chú kỳ nhông hoảng sợ chạy quanh thân cây. Con bìm bịp cũng bay loanh quanh đuổi theo con kỳ nhông. Ðứng trước cảnh đo tôi phải làm sao? Tôi ra đuổi con bìm bịp để cứu con kỳ nhông, việc làm đó là thiện hay là ác? Thấy qua dường như thiện: Cứu được sinh mạng con vật nhỏ bé, đuổi được được con vật lớn hiếp đáp, đó là việc thiện chứ gì? Nhưng đứng về con bìm bịp thì thế nào? Buổi chiều đang đói, chim bìm bịp đi kiếm ăn, gặp được miếng mồi là con kỳ nhông, sắp mổ ăn mà bị người ngăn lại. Chim bìm bịp làm sao khỏi sanh tức giận. Khiến kẻ khác tức giận, đó là việc làm ác chứ gì? Như vậy, đuổi con bìm bịp chỉ thiện đối với con kỳ nhông mà ác đối với chim bìm bịp, thiện ác có cố định không? Xét xa hơn nữa, chẳng những ác với con kỳ nhông mà còn ác với các con mồi khác nữa, vì chim bìm bịp đâu chịu nhịn đói tức nhiên phải kiếm một con mồi khác để ăn và con mồi này là nạn nhân của tôi vì nó đã thế mạng con kỳ nhông, nếu nó biết việc này tức nhiên nó sẽ oán thù tôi luôn.

Qua câu chuyện trên chúng ta phải định thiện ác như thế nào? Thiện ác có cố định chăng? Một việc làm nhìn dường như là thiện, nhưng nhìn qua một khía cạnh khác lại là ác, chính đó là trong đối đãi không cố định, nghĩ làm việc thiện mà việc ác đã sanh ở bên cạnh rồi. Thiện ác không cố định mà chấp là cố định, là chúng ta đã sai lầm. Tuy nhiên trong đối đãi làm việc gì lợi mình lợi người là thiện, hoặc hại mình mà làm lợi nhiều người là thiện, còn làm việc gì lợi mình hại người là ác.

Nói lại tỷ dụ ly nước lúc nãy, nó có cố định là nhơ hay sạch chăng? Một ly nước đang trong sạch, bỏ một cục đất vào thành nhơ mất, nó đâu có cố định. Ly nước thành nhơ ấy, để lóng lại, lọc qua cái ly khác thì trở thành trong sạch. Ly nước luôn luôn đổi thay tuỳ duyên không cố định, nếu chúng ta chấp vào một cái gì cố định là chúng ta sai lầm.

Ðến tỷ dụ dài ngắn: Một cây dài một thước để gần cây năm tấc, thì cây một thước là dài, cây năm tấc là ngắn. Khi cây một thước để gần cây hai thước thì cây một thước là ngắn, cây hai thước là dài. Như vậy chúng ta thấy tuỳ duyên mà cây một thước biến thành dài ngắn trong đối đãi, chớ không cố định.

Sự tốt xấu của sự vật cũng như vậy. Một vật trung bình để gần một vật tốt thì trở thành xấu, nếu để gần một vật xấu hơn thì trở thành tốt hơn. Cái tốt biến thành xấu hay xấu biến thành tốt là tùy duyên thay đổi, không có cái xấu tốt cố định, nếu chấp vào sự vật cố định tức là sai lầm.

Cũng như vậy, tất cả các pháp thế gian đều là đối đãi không cố định, nếu thấy các pháp không cố định là thấy đúng sự thật, nếu thấy các pháp là cố định là thấy sai lầm, tức là khổ vậy.

Học kinh Bát-Nhã là phá chấp, nên biết tất cả là không cố định thì còn chấp vào cái gì? Cho nên nói không phải tất cả (không có nghĩa là không có) mà ngay nơi đó là tất cả. Bởi vì cái không cố định này nó không phải là gì hết,nhưng tùy duyên nó thành tất cả. Nó không phải tất cả mà tùy duyên nó thành lập tất cả.

Tinh thần Bát-Nhã chỉ cho chúng ta thấy rõ tất cả các pháp đối đãi ở thế gian này là không có thực (không thực không phải là không ngơ), không thực là tướng tùy duyên, không cố định, luôn luôn thay đổi theo duyên; theo duyên thay đổi nên không ở mãi một vị trí, không ở mãi một hình thức, không ở mãi một hoàn cảnh nào, luôn luôn tùy thời chuyển biến đổi thay.

Như vậy cái chuyển biến đổi thay tùy thời tùy duyên đó gọi là không cố định. Nhìn thấy rõ như vậy là thấy đúng sự thật, gọi là thấy bằng trí tuệ Bát-Nhã. Nếu thấy một bên là thấy bằng thiên chấp, tức là thấy lầm. Nếu thấy bằng thiên chấp là thấy của vô minh, không bao giờ thấy Ðạo. Nếu thấy đúng như thật là thấy bằng trí tuệ, là thấy Ðạo.

Câu chuyện thiền sau đây cho chúng ta thấy các pháp tùy duyên chuyển biến. Câu chuyện ngài Ðạo Ngộ và đệ tử là ngài Tiệm Nguyên. Hai thầy trò đi đám tang của một thí chủ. Khi ấy ngài Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi thầy: "Ðây là sanh hay tử? (sanh ư, tử ư?)". Ngài Ðạo Ngộ trả lời: "Sanh không nói, tử cũng không nói". Ngài Tiệm Nguyên tức quá hỏi thầy: "Tại sao không nói?". Ngài Ðạo Ngộ chỉ trả lời: "Không nói, không nói".

Ngài Tiệm Nguyên càng tức, vì sao thầy không nói tử mà cũng không nói sanh. Sau khi xong đám ma về khi đi ngang qua cáng đồng, ngài Tiệm Nguyên lại thưa: "Thầy phải nói cho con nghe. Thầy không nói con sẽ đánh thầy". Vị thầy bảo: "Ðánh thì đánh, nhất định không nói". Ông học trò liền thoi vị thầy. Khi về đến chùa, vị thầy bảo: "Thôi chú hãy cuốn gói đi đi, nếu tri sự hay việc này chú sẽ không yên". Ngài Tiệm Nguyên đành phải ra đi. Sau khi rời thầy, ngài cất một cái am ở xa để tu. Ngài cứ băn khoăn mãi vấn đề không phải sanh, không phải tử, vì sao sanh tử đều không nói? Cho đến một đêm nghe am ở gần tụng kinh Phổ Môn, đến câu "Ưng hiện Tỳ Kheo thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ Kheo thân đắc độ; ưng hiện Tỳ Kheo Ni thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ Kheo Ni thân đắc độ; ưng hiện cư sĩ thân đắc độ giả, tức hiện cư sĩ thân đắc độ ..." Khi nghe đến đây, ngài Tiệm Nguyên liền ngộ. Như vậy tại sao ngài ngộ?

Tại sao ngài Ðạo Ngộ không chịu nói sanh hay tử? Chúng ta quen sống trong đối đãi cho nên chấp cái gì cũng thật: "Hoặc là sanh, hoặc là tử". Nhưng ở đây theo tinh thần Bát-Nhã thì sanh tử không cố định; nếu là sanh thì không có tử, nếu là tử thì không có sanh. Nhưng trong vòng luân hồi sanh tử không có dừng: tử rồi lại sanh, sanh rồi lại tử, không cố định. Nếu nói là sanh hay là tử là nói một bên. Cho nên vị thầy thà để học trò đánh mà không nói. Sau này ngài Viên Ngộ bình nói: "Thật là ông thầy (chỉ ngài Ðạo Ngộ) vì trò mà máu ra lênh láng" Thầy đã hy sinh tột độ để nhờ đức hy sinh đó người học trò mới ngộ.

Nhưng ngài Tiệm Nguyên đã ngộ cái gì? Khi nghe tụng: "Nếu cần hiện thân Tỳ Kheo độ thì hiện thân Tỳ Kheo, Nếu cần hiện thân Tỳ Kheo Ni độ thì hiện thân Tỳ Kheo Ni, nếu cần hiện thân cư sĩ độ thì hiện thân cư sĩ ..." Như vậy là tùy duyên mà hiện chớ không có cái gì cố định cả. Ðó là chỗ ngài Tiệm Nguyên đã ngộ, Ngài đã thấy Ðạo.

Trong kinh Pháp Bảo Ðàn, lời di chúc của Lục Tổ cũng dạy như vậy... Lục Tổ bảo: "Nếu có người hỏi tối thì lấy sáng đáp, hỏi có thì lấy không đáp". Ví dụ hỏi thế nào là tối? Ðáp: "không sáng". Hỏi thế nào là có? Ðáp: "Chẳng phải không". Dạy cách đối đáp như vậy, Lục Tổ muốn chỉ chúng ta thấy: Tối sáng là tướng đối đãi không thật, không thật là không cố định, là tướng tùy duyên. Nếu nói là tối, là sáng là cố định, tức nhiên khiến người ta chấp vậy. Thà nói không phải tối, không phải sáng để người nghe thầm nhận là tối, là sáng, tướng đối đãi không cố định. Có và không cũng như vậy. Sở dĩ có là đối với không mà nói, chớ đâu có thật. Biết các pháp không thật là thấy đạo. Lục Tổ đã ứng dụng triệt để tinh thần Bát-Nhã trong cách đối đáp về các tướng đối đãi tùy duyên.

Trong nhà thiền, khi được hỏi những gì còn chấp một bên, các Thiền Sư thường đưa hai ngón tay lên để chỉ rằng người hỏi còn kẹt ở hai bên, tức là chưa thấy Ðạo. Dùng trí tuệ Bát-Nhã thấy các pháp là tướng tùy duyên không cố định, đó là cửa vào Thiền, đó là cửa "KHÔNG", tức là không cố định vậy. Các pháp biến chuyển tùy duyên, vật này biến thành vật kia, thấy đúng như vậy gọi là trí tuệ Bát-Nhã thấy đúng sự thật, và đó cũng hợp với tinh thần khoa học hiện nay.

Ðối với pháp thế gian không cố định, các pháp xuất thế gian có cố định được không?
Pháp Phật nói như những thứ thuốc để trị bịnh cho chúng sanh, chúng sanh có những bệnh gì, Ðức Phật lập ra những thứ thuốc ấy, vì vậy thuốc và bịnh là hai cái đối đãi nhau thì làm sao thiệt được? Nếu cố chấp là thiệt tức là cố định là sai lầm mất rồi. Cho nên nói: "Không phải vô minh ... cho đến không phải hết lão tử" là để phá chấp của Tiểu thừa đối với pháp Tứ Ðế và Thập Nhị Nhân Duyên cho là thật pháp. Chẳng qua là vì chúng sanh có những bịnh nên đức Phật phải lập ra những phương thuốc để trị, nếu bịnh hết rồi thì thuốc cũng phải bỏ. Vì vậy pháp Tứ Ðế và Thập Nhị Nhân Duyên đức Phật tạm lập ra để trị bịnh cho chúng sanh, nếu chúng sanh chấp cho là thật pháp là sai lầm.

Cái trí và đắc của Bồ Tát cũng là không thật. Vì sự thật trên thế gian này không có cái sở đắc. Nếu có cái sở đắc là có cái bị được, tất phải có cái hay được; hay được và bị được là đối đãi nhau, năng và sở đối đãi nhau thì làm sao thật được (vì là tướng không cố định). Cho nên nói: "Không trí cũng không đắc" để phá luôn cái trí đắc của Bồ Tát.

Chánh văn: Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Ðề Tát Ðỏa y Bát-Nhã Ba La Mật Ða cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn

Dịch: Vì không sở đắc, Bồ Tát (Bồ Ðề Tát Ðỏa) y trí tuệ cứu cánh này tâm không quái ngại; bởi vì không quái ngại, không bị ngăn che chướng ngại nên không kinh sợ, xa lìa tất cả mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn

Giảng: Niết Bàn là vô sanh, tức là không sanh không diệt. Chúng sanh vì bị các thứ điên đảo và mộng tưởng, tức là những cái nhìn trái với sự thật, và những cái tưởng mơ màng không đúng lẽ thật, cho bản thân mình và tâm lý cũng như sinh lý là thường nhứt và có chủ tể. Cái thấy như vậy là cái thấy điên đảo, sai lầm không sáng suốt. Vì không sở đắc, Bồ Tát xa lìa được các điên đảo mộng tưởng. Chính nhờ trí tuệ cứu kính ấy, các ngài hoàn toàn thoát ly sanh tử nên nói là cứu kính Niết Bàn.

Chánh văn: Tam thế chư Phật y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða cố đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề

Dịch: Ba đời chư Phật cũng y trí tuệ Bát Nhã cứu kính này được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác (A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề), tức là thành Phật

Giảng: Vì không sở đắc, Phật nhơn trí tuệ Bát-Nhã mà được thành Phật. Vì không sở đắc, Bồ Tát nhơn trí tuệ Bát-Nhã mà xa lìa tất cả sai lầm được an ổn Niết Bàn. Chính là vô đắc mà đắc, đây là tinh thần Bát-Nhã. Như trong kinh Kim Cang Phật nói: "... Do thật không có pháp được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thế nên đức Phật Nhiên Ðăng mới thọ ký cho ta, nói thế nầy: Ở đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni".

Chúng ta tu theo Phật phải đi đường nào để được Niết Bàn? Ðể xa lìa điên đảo mộng tưởng để thành Phật? Tức là phải dùng trí tuệ Bát-Nhã, nên ở đây nói:

Chánh văn: Cố tri Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư

Dịch: Cho nên biết trí tuệ cứu kính này là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ tất cả khổ, chơn thật không dối

Giảng: Vì sao trí tuệ Bát-Nhã lại diệu dụng như đại thần chú, như đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú? Vì ngày xưa ở Ấn Ðộ, những chú này thường được dùng để trừ hết khổ của chúng sanh. Cũng như vậy, trí tuệ Bát-Nhã có đủ công dụng như những thần chú ấy, chân thật không dối, đó là diệu dụng của Bát-Nhã.

Chánh văn: Cố thuyết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha

Dịch: Cho nên nói trí tuệ cứu kính này là chú (tức là thần chú), tức nói chú rằng: Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha

Giảng: Vì sao đã nói trí tuệ Bát-Nhã là đại thần chú, là đại minh chú ... có diệu dụng trừ tất cả khổ, chân thật không dối, lại còn nói thêm câu chú nữa: "Yết Ðế, Yết Ðế ..." chi cho thừa?

Cách kết thúc bài Bát-Nhã Tâm Kinh này là một nghi vấn cho chúng ta. Có những nhà khảo cứu giải rằng: trong thời Trung Kỳ Phật Giáo (thời kỳ Bát Nhã),Mật tông đã chen vào trong Giáo (tức là trong kinh điển), cho nên rốt sau bài Bát Nhã Tâm Kinh có một câu chú để kết thúc.

Nhưng đối với cái nhìn của Thiền Sư thì không phải như vậy. Thiền Sư thấy câu chú ở câu kết thúc là đúng nghĩa "TÂM KINH". Vì sao? Chúng tôi xin trích dẫn câu nói của Thiền Sư Duy Tín: "Trước khi gặp thiện hữu tri thức, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông". Chúng tôi sẽ lần lượt giải thích để quí vị thấy rõ:

  1. Trước khi gặp thiện hữu tri thức, thấy núi sông là núi sông: Khi chưa học Bát-Nhã, chúng ta thấy núi sông là núi sông, vì chúng ta thấy tất cả pháp thế gian đều là thiệt: núi thật là núi, sông thật là sông. Pháp nào cũng thiệt, pháp nào cũng cố định cả.
  2. Sau khi gặp thiện tri thức chỉ dạy (tức đã học Bát-Nhã rồi), thấy núi sông không phải là núi sông: Khi học Bát-Nhã rồi, chúng ta thấy tất cả các pháp tùy duyên, tất cả các pháp không cố định; cho nên núi không phải là núi, sông không phải là sông. Ví dụ, vì một nguyên do gì quả đất chúng ta đang ở bỗng rung rinh sụp đổ, thì nơi hòn núi cao có thể biến thành biển cả, sông ngòi đùn đất lại để hóa thành đồi nong... Vì vậy, các pháp đều tùy duyên, không cố định, nên núi sông không phải là núi sông, tức là thấy đúng trí tuệ Bát-Nhã.
  3. Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông: Ba mươi năm hành thâm Bát-Nhã rồi, mới thấy núi sông là núi sông. Nhận thấy núi sông là núi sông ở đây có giống với nhận thấy núi sông là núi sông trước khi gặp thiện hữu tri thức không? Chắc hẳn là không. Trước kia, thấy núi sông là thật; đến khi dùng trí tuệ Bát-Nhã quán chiếu, biết núi sông là tướng tùy duyên, không cố định. Khi biết các pháp hư dối, tùy duyên nên tâm không còn chấp một pháp nào, tức không còn dính mắc vào một pháp nào cả, gọi là tâm vô quái ngại, thì cứu kính Niết Bàn, đó là đến chỗ như như. Tâm như như rồi, thấy núi là núi, sông là sông không khởi phân biệt, không còn dính mắc. Thấy núi là núi, sông là sông là cái thấy của Thiền Sư, tức là sống được với bản tâm thanh tịnh của mình, tức là TÂM KINH vậy! Kết thúc bằng TÂM KINH, tức là kinh này nói thẳng vào TÂM, là chỗ không có ý niệm, không khởi phân biệt. Ðó là: "núi là núi, sông là sông".

Chúng tôi xin dẫn thêm bài kệ của Thiền Sư Trì-Bát đời Lý, dòng Tỳ-Ni Ða-Lưu-Chi. Khi sắp tịch ngài nói bài kệ:

Dịch âm:
Hữu tử tức hữu sanh
Hữu sanh tức hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sanh vi thế sở hỉ
Bi hỉ lưỡng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
Ư chư sanh tử bất quan hòai
Án tô rô tố rô tất rị
Dịch nghĩa:
Có tử tức có sanh
Có sanh tức có tử
Tử là người đời buồn
Sanh là người đời vui
Buồn vui hai không cùng
Bỗng nhiên thành bỉ thử (kia đây)
Ðối với sanh tử không bận lòng
Án tô rô tố rô tất rị

Có tử tức có sanh, có sanh tức có tử. Tử là người đời buồn, sanh là người đời vui: Vì vậy để kỷ niệm ngày sanh, người ta gọi là ăn mừng sinh nhật; còn nhớ tưởng đến người đã mất, người ta buồn sợ, nên gọi là ngày kỵ cơm. Vui buồn hai cái không cùng tột, bỗng hiện thành ra có kia có đây trong vòng đối đãi. Ðối với sanh tử không bận lòng, tức không còn nhìn thấy hai bên nữa, nghĩa là không còn cố chấp hai bên nữa. Không còn cố chấp thật sanh, không còn cố chấp thật tử, thì như thế nào? Án tô rô tố rô tất rị - Ý nghĩa câu thần chú này là gì? Tức là khi người ta không còn chấp hai bên nữa thì tâm hết dính mắc. Tâm hết chỗ dính mắc tức đến chỗ như như. Ðọc câu chú lên mà không dấy niệm phân biệt, đó là như như.

Như vậy, khi kết thúc bằng mấy câu thần chú là để nói: "Khi dùng trí tuệ Bát-Nhã đến chỗ cứu kính rồi, thì tâm thể như như; đó tức là tâm kinh". (Các Thiền Sư thời xưa hay dùng câu thần chú để kết thúc, như Ngài Tông Cảng Quốc Sư đã dùng Án tô rô tố rô tất rị để kết thúc bài tán Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ).

Kết thúc

Bát-Nhã chia làm ba phần: văn tự Bát-Nhã, quán chiếu Bát-Nhã và thật tướng Bát-Nhã.

-- Văn tự Bát-Nhã là chữ nghĩa để chúng ta đọc tụng, hiểu nghĩa
-- Quán chiếu Bát-Nhã là xem xét soi thấu
-- Thật tướng Bát-Nhã là chỗ chơn thật, Niết Bàn

Văn tự Bát-Nhã ví như con thuyền. Quán chiếu Bát-Nhã giống như ra công chèo bơi. Thật tướng Bát-Nhã ví như bờ bên kia. Khi xuống thuyền (là đọc tụng, hiểu nghĩa) rồi hài lòng ở đó, thì không bao giờ toại nguyện, cần phải chèo bơi (là quán chiếu) mới mong tới bờ bên kia (là thật tướng). Tới bờ rồi chúng ta mới tự tại, đạt được sở nguyện của mình. Vì thế kinh này đặt nặng hai chữ "chiếu kiến", tức là "quán chiếu Bát-Nhã".

Trong bài Bát-Nhã Tâm kinh, nếu chúng ta ứng dụng triệt để, thì con đường tu hành đã sẵn đầy đủ trong đó chớ không đâu xa. Nếu chúng ta hằng dùng trí tuệ Bát-Nhã soi mãi thấy rõ rằng: Tất cả thân cảnh là duyên hợp không tự tánh tức là không cố định. Bởi tất cả các pháp đều là tùy duyên biến đổi không cố định, thử hỏi chúng ta nhằm vào đâu mà chấp? Nếu chấp là chấp vào cái cố định. Bây giờ không cố định là phải, không cố định là quấy, không cố định là hơn, không cố định là thua, tất cả không cố định thì thử hỏi chấp vào cái gì? Phá hết các chấp rồi là hết khổ, hết khổ là tâm không còn bị ngăn, bị chướng, dứt hết các điên đảo mộng tưởng, được hoàn toàn không sanh không diệt. Ðây tức là Tâm Kinh. Tâm kinh là con đường chư Bồ-Tát đã đi, chư Phật cũng từ đó mà chứng Ðạo. Ngày nay chúng ta tu không có lối nào khác hơn, cho nên các thời kinh đều dùng bài Bát-Nhã Tâm Kinh để kết thúc.

Thế mà lắm người hiện nay không nhận thấy Bát-Nhã là cái trí tuệ phá các chấp mê lầm của chúng sanh, mà cho bài Bá-Nhã là để bổ túc những cái thiếu sót trong bài tụng ở trước; đó là một điều quá sai lầm, ông cha quá thông minh, con cháu quá dốt nát không hiểu được ý người xưa, nên nói ngược lại với ông cha của mình.

Người học đạo nếu thật tình muốn tiến tu để thoát sanh tử, thì không ai mà không ứng dụng trí tuệ Bát-Nhã. Chính Lục Tổ ngộ cũng từ kinh Kim Cang Bát Nhã, đến khi dạy ngài cũng lấy phẩm Bát Nhã làm quan trọng; và trong giờ phó chúc, ngài cũng dùng tinh thần Bát-Nhã để dạy đồ đệ.

Cửa thiền là cửa KHÔNG, không đây là không cố định. Dùng trí Bát-Nhã thấy các pháp không cố định là thấy cửa vào nhà Thiền.

Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa việc ứng dụng tu hành: Hằng dùng trí Bát-Nhã quán chiếu thân ngũ uẩn là tướng duyên hợp không thật. Hằng nhận thấy như vậy, tức nhiên chúng ta bớt cái chấp thật, thì các vọng tưởng sẽ dần dần giảm và chúng ta mới buông bỏ vọng tưởng dễ dàng hơn. Thân tứ đại không thật, tâm vọng tưởng không thật thì dù ai có khen có chê, chúng ta cũng chẳng bận lòng; phiền não, chấp trước càng ngày càng nhẹ bớt đi. Dùng Bát-Nhã vào việc tu hành thì chúng ta tu sẽ được an ổn, nhẹ nhàng và thảnh thơi.

Biết các pháp là tướng tùy duyên không cố định thì nói sao cũng tốt, không có gì quan trọng. Người đời nói lẽ phải chúng ta cũng gật đầu, người đời nói quấy chúng ta cũng gật đầu vì tùy theo thời, hoàn cảnh mà người ở thế gian cho là phải hay quấy. Nhưng trên phương diện tu hành, chúng ta biết các pháp là không thật thì buông xả dễ dàng, không chấp trước. Việc phải quấy là tướng đối đãi tùy duyên, có gì mà phải bận lòng! Nói thế không có nghĩa chúng ta là kẻ "ba phải". Vì "ba phải" là kẻ ngu si, nói gì cũng gật, còn chúng ta sống bằng trí tuệ Bát-Nhã thấy rõ lẽ thật của cuộc đời, nên không cố chấp. Bởi chấp là ngu si đau khổ, hết chấp là giải thoát Niết Bàn.

oOo

 

HT. Thích Thanh Từ

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: bài giảng
Comment addGửi bình luận của bạn
Mã chống spamThay mới

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Giới Thiệu:

    Chùa Sắc Tứ Khải Đoan là ngôi chùa đầu tiên của tổ chức Phật Giáo có mặt tại Đaklak, được xây dựng vào năm 1951. chùa tọa lạc trên khu đất rộng 7 mẫu 8 sào 28m2, do Đoan Huy Hòang Thái Hậu Hòang Thị Cúc hiến cúng cho Tổng Hội Phật Giáo trung phần.

Thông báo

Số Lượng truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 101

Máy chủ tìm kiếm : 2

Khách viếng thăm : 99


Hôm nayHôm nay : 1383

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 180514

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 29119568


Ảnh đẹp