Quan điểm của đạo Phật về đấng sáng thế

Thứ bảy - 14/04/2012 23:15
Quan điểm của đạo Phật về đấng sáng thế

Quan điểm của đạo Phật về đấng sáng thế

Quan điểm phủ nhận về một đấng toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện trong Kinh tạng Phật giáo Nam truyền cũng như Kinh tạng Phật giáo Bắc truyền. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng thế được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của Đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng căn bản trong việc đề ra những giải pháp để thoát khỏi nỗi khổ đau, đạt được hạnh phúc thực sự.

 

Trong văn học Phật giáo, xuyên qua giáo lý Vô ngã, không có một thực thể cố định thì hẳn nhiên niềm tin vào một vị thần sáng tạo luôn luôn bị phản bác và từ chối, bởi vì Phật giáo phủ nhận mọi triết thuyết cho rằng có một một đáng sáng thế quyền năng tối cao tạo ra vũ trụ, làm chủ linh hồn, đặt để thời gian vv… Niềm tin về một đấng sáng thế được đặt trong cùng thể loại như những quan điểm sai lầm về mặt đạo đức, đặt thân phận con người dưới sự an bài của đấng vô hình như là định mệnh tuyệt đối và không thể thay đổi, dẫn đến sự nguy hại lâu dài cho nền móng xã hội do tác động đến những giá trị nhân bản của đạo đức.

Brahma_Musee_Guimet_1197_1.jpg

Tượng đầu Phạm Thiên tại Bảo tàng Guimet, Paris, Pháp 

Vì tin tưởng vào một đấng sáng thế Brahma (Phạm Thiên) mà hàng nghìn năm xã hội Ấn Độ đã duy trì sự phân chia bốn giai cấp, gây nên sự chia rẽ trầm trọng. Mỗi giai cấp đều tùy thuộc vào ý chí của đấng Phạm Thiên, cố định vị trí ở thân thể của Phạm Thiên: Giai cấp Bà-la-môn được cho là con chính thống của Phạm Thiên, sinh ra từ miệng Phạm Thiên, là chủng tánh tối thượng an hưởng cuộc đời sung sướng. Giai cấp Sát-đế-lỵ sinh ra từ cánh tay Phạm Thiên là giai cấp hoàng tộc, thay mặt cho Phạm Thiên nắm giữ quyền hành thống trị. Giai cấp Vệ-xá được cho là sinh ra từ bắp vế Phạm Thiên, là giai cấp thương gia, nông phu và thợ thuyền phụ trách về kinh tế. Giai cấp Thủ-đà-la được cho là sinh ra từ gót chân của Phạm Thiên, là hạng bần cùng hạ tiện và chỉ làm nô lệ suốt đời cho các giai cấp trên.

Đức Phật đã phủ nhận về sự tồn tại của Brahma với quyền năng định đoạt như thế; điều này được đề cập trong nhiều kinh văn Phật giáo. Đoạn kinh Tevijja (Trường bộ I) sau đây là cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Bà-la-môn Vàsettha về đấng Phạm Thiên:

“…Này Vàsettha, như vậy ngươi nói không có một Bà-la-môn nào trong những vị tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm Thiên - không có một tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm Thiên, không có một đại tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà và đã tận mặt thấy Phạm Thiên - không có một Bà-la-môn nào cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mắt thấy Phạm Thiên, trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vàmaka… không có một vị nào đã nói: ‘Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm Thiên ở đâu, Phạm Thiên từ đâu đến, Phạm Thiên sẽ đi đâu’. Như vậy các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: ‘Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm Thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: ‘Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm Thiên cho những ai thực hành theo’. Này Vàsettha, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chính xác, hợp lý…”.

Với sự tin tưởng hão huyền này đã gây nên sự cuồng tín, không khoan dung, nâng cao tự ngã; thông thường gây ra sự căm thù và những bạo lực khi người khác không có cùng niềm tin và quan điểm với mình.

​​Xuyên qua nhiều thế kỷ, triết học Phật giáo đã trình bày các lập luận chi tiết bác bỏ học thuyết về một vị thần sáng thế. Nó đã được quan tâm để so sánh những việc này với cách mà các triết gia phương Tây đã bác bỏ các thông tin chứng minh thần học về sự tồn tại của đấng sáng tạo.

Đối với một vài người tin tưởng một cách nghiêm túc hơn thì ý tưởng về một đấng tạo hóa chỉ là một lập trường chỉ để giải thích các sự kiện bên ngoài như nguồn gốc của thế giới mà với tri thức thông thường của con người không thể thấu hiểu. Đối với họ, nó là một đối tượng của đức tin có thể tạo ra một cảm giác mạnh mẽ bên cạnh sự hiện diện an ủi của đấng tạo hóa và sự gần gũi với chính mình. Chẳng hạn như ấn tượng thời thơ ấu, hình ảnh huyền thoại của những vị thần tiên đi vào truyện cổ tích, truyền thuyết đã tác động vào trí óc của con người và tạo nên những hình ảnh của tư tưởng mà tín đồ của các tôn giáo đã có một lề lối khái niệm chân thành nhất; một phân tích phát hiện gần đây đã hiển thị rằng “kinh nghiệm về đấng sáng thế” đã không có nội dung cụ thể hơn điều này.

PHAT HOC 637.jpg

Phạm Thiên và Đế Thích thỉnh vấn Phật

Tuy nhiên, cuộc sống và tác phẩm của các nhà thần bí của tất cả các tôn giáo lớn đã chứng minh cho kinh nghiệm của họ có ảnh hưởng lớn, trong đó việc thay đổi đáng kể được thực hiện ở chất lượng của ý thức, sự cảm thụ sâu xa trong lời cầu nguyện hay thiền định có thể đánh động đến chiều sâu và ảnh hưởng trên mặt rộng ý thức xuyên qua cảm hứng truyền trao của sự hân hoan và hạnh phúc phát đi từ họ. Với cảm thụ như vậy, các nhà thần bí tin rằng kinh nghiệm của mình là biểu hiện của thần thánh, là hiệp thông với đấng tạo hóa, nhiệm vụ của họ là trung gian giữa thượng đế và con người… Với những ấn tượng sâu sắc được xem như là thần bí và họ đã gõ cửa thần học để xác định sự “hiệp thông” đặc biệt của mình. Giả định này là khá dễ hiểu, kinh nghiệm huyền bí cũng chỉ là những đặc trưng tăng, giảm hoặc loại trừ tạm thời, biểu hiện làn sóng đa phương trình của ý thức, nhận thức và suy nghĩ không ngừng nghỉ trong những tần số rung động của tâm. Thật là thú vị cần lưu ý, tuy nhiên, những nỗ lực của hầu hết các nhà thần bí lớn phương Tây liên quan đến kinh nghiệm thần bí của mình để các tín đồ công nhận kết quả của họ trong giáo lý thường được xem xét và nghi ngờ đối với chính thống, nếu không được coi là hết sức dị giáo.

Xuyên qua Phật giáo, những hành giả khi đã thâm sâu trong thiền định họ nhận diện các yếu tố thể chất và tinh thần cấu thành kinh nghiệm của mình trong ánh sáng của mọi hiện hữu qua ba đặc điểm, đó là vô thường, đau khổ, và sự vắng mặt của một cái tôi (vô ngã); điều này được thực hiện chủ yếu để sử dụng độ tinh khiết thiền định và sức mạnh của ý thức cho mục đích cao nhất: giải phóng bản ngã từ cái thấy sâu sắc; việc này giúp hành giả thoát khỏi sự  tràn ngập ảo giác bởi bất kỳ những cảm xúc và ý nghĩ không kiểm soát được đi từ kinh nghiệm của họ, và do đó sẽ có thể  tránh đi sự lừa dối của kinh nghiệm ý thức.

Một thiền giả tốt trong Phật giáo, thông qua những trải nghiệm thiền định mà những gì vị ấy có là cái thấy không tùy thuộc, không có vị trí cố định để xác lập, như thác nước trôi chảy không ngừng, không có đối tượng hoặc chủ thể cố định, do đó trạng thái thần bí cao nhất của thiền giả không cung cấp cho sự tồn tại của một đấng tạo hóa duy nhất hay một vị thần khách quan điều động và chi phối cá nhân.

Do vậy, Phật giáo được xem như là “chủ nghĩa vô thần” đối với những người có tư tưởng độc lập hay những nhà hữu thần, chỉ vì Phật giáo không tin tưởng vào một đấng sáng tạo, toàn năng và vĩnh cửu, đúng hơn đó là sự sáng tạo từ ý tưởng con người. Tuy nhiên, quan niệm về “vô thần” trong Phật giáo không đồng với “vô thần” của những nhà thuần túy duy vật hay duy vật biện chứng. Học thuyết Phật giáo là sự hòa hợp giữa tâm và vật. Phật giáo không tán thành triết lý vật chất hủy diệt thuần túy, đúng hơn quan niệm nó là một lý thuyết sai lầm. Sáu cõi luân hồi và các cảnh giới Thánh hiền thanh tịnh đủ để chứng minh rằng quan điểm của Phật giáo không phải là sự hủy diệt hoàn toàn sau khi chết, mà là sự thay đổi không ngừng. Mỗi chúng sinh là một “đấng sáng tạo” của chính mình xuyên qua sự vô hạn của kiếp luân hồi, qua hành vi tạo tác - nghiệp. Học thuyết về Nghiệp là chu kỳ của sự tạo tác và hình thành của tâm cùng vật đặt căn bản trên giáo lý Nhân quả, tác động và chi phối sự hiện hữu của mọi chúng sinh. Chữ “không” trong đạo Phật, có thể hiểu đó là sự phủ nhận quan niệm có một bản ngã bất biến - nguyên nhân của các đau khổ cho con người. “Không” là giải thoát, là trạng thái mà tham, sân, si được chuyển hóa hoàn toàn, không còn làm động cơ cho những khổ đau của ngọn lửa dục vọng điên cuồng đang thiêu đốt chúng sinh.

Không cần sự thưởng phạt của một đấng tối cao, giá trị đạo đức của Phật giáo trên căn bản năm giới cấm và mười điều thiện đã cung ứng cho quốc gia và xã hội một nền tảng đạo đức viên mãn. Không mù quáng và ảo tưởng trong niềm tin, dựa trên triết thuyết  hợp lý sâu sắc và thí nghiệm từ sự thực hành mang tính khoa học, Phật tử tôn thờ Đức Phật là bậc thầy (Bổn sư) giác ngộ, đầy đủ lòng từ bi và trí tuệ. Người Phật tử nhìn nhận Đức Phật bản chất tiềm ẩn trong chính mình (Phật tánh), đó là điểm khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác.

Mặc dù Phật giáo được xem như là một tôn giáo, tuy nhiên lý thuyết, triết học và sự thực hành của nó vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo; Phật giáo đặt con người làm mục tiêu thể nghiệm sự khổ đau và sự giải thoát khổ đau ngay trong đời sống thay vì khái niệm hão huyền về một đấng sáng thế toàn năng và vĩnh cửu.
 

Thích Nữ Tịnh Quang

 

 

 

 

 

Tổng số điểm của bài viết là: 4 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: phật giáo
Comment addGửi bình luận của bạn
Mã chống spamThay mới

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Giới Thiệu:

    Chùa Sắc Tứ Khải Đoan là ngôi chùa đầu tiên của tổ chức Phật Giáo có mặt tại Đaklak, được xây dựng vào năm 1951. chùa tọa lạc trên khu đất rộng 7 mẫu 8 sào 28m2, do Đoan Huy Hòang Thái Hậu Hòang Thị Cúc hiến cúng cho Tổng Hội Phật Giáo trung phần.

Thông báo

Số Lượng truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 145


Hôm nayHôm nay : 1952

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 138603

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 26936728


Ảnh đẹp